1. Tóm tắt: Trong bối cảnh toàn cầu hoá, khối lượng tri thức nhân loại tăng lên theo hàm số mũ, cùng với mạng viễn thông toàn cầu cho phép trao đổi thông tin một cách nhanh chóng, việc tiếp cận của mỗi người với tri thức nhân loại rất thuận lợi và với khối lượng lớn như hiện nay, nhà trường không thể chỉ giới hạn ở việc trang bị cho người học một lượng tri thức nhất định. Điều quan trọng hơn rất nhiều là nhà trường cần phải chú trọng đến việc bồi dưỡng và rèn luyện cho sinh viên phương pháp học tập, phương pháp khai thác và xử lý tri thức, trong đó, đặc biệt quan trọng là phương pháp tự học, tựnghiên cứu. Chỉ có nhờ vào phương pháp tự học, tự nghiên cứu, sinh viên sau khi ra trường mới có đủ khả năng để tự mình làm giàu vốn tri thức của mình, phục vụ tốt hơn cho hoạt động thực tiễn. Bài viết trình bày một số giải pháp nhằm phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu cho Sinh viên ngành Sư phạm Ngữ văn qua phân môn Ngữ pháp Tiếng Việt.
2. Từ khóa: Ngữ pháp tiếng Việt ,tự học, tự nghiên cứu, sinh viên Sư phạm
3. Tài liệu tham khảo:
1. Diệp Quang Ban (1989), Ngữ pháp tiếng Việt phổ thông, tập 2, NXB ĐH và THCN.
2. Đinh Quang Báo (2013), Mục tiêu và chuẩn trong Chương trình giáo dục phổ thông sau năm 20015 (Dự thảo), Tài liệu sử dụng nội bộ.
3. Đỗ Việt Hùng (2010), Quan hệ ngôn ngữ – văn hoá và việc dạy học bản ngữ ở bậc phổ thông, Ngôn ngữ và Đời sống, số 11.
4. Đỗ Ngọc Thống (2013), Định hướng đổi mới Chương trình, Sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau năm 2015 (Dự thảo), Tài liệu sử dụng nội bộ.
5. Bùi Minh Toán (2010), Tiếng Việt ở Trung học phổ thông, NXB ĐHSP.
6. Phân phối chương trình môn Ngữ văn THCS (2009), Bộ Giáo dục và Đào tạo.
NỘI DUNG BÀI VIẾT
1. Vị trí, vai trò của học phần Từ pháp – cú pháp học Tiếng Việt (Ngữ pháp Tiếng Việt)
Các kiến thức về Ngữ pháp được dạy liên tục từ bậc tiểu học đến THPT. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của Ngữ pháp trong hệ thống ngôn ngữ nói chung và trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ nói riêng. Dạy Ngữ pháp phải giúp người học nắm được đặc điểm loại hình tiếng Việt về mặt ngữ pháp mới có cơ sở để viết câu đúng và hay, biết sử dụng câu linh hoạt, chính xác trong mọi phong cách văn bản.
Ngữ pháp là một trong ba bộ phận cấu thành của một ngôn ngữ. Việc nghiên cứu ngữ pháp của một ngôn ngữ bao gồm cụ thể hai phân ngành:
Từ pháp học: đối tượng nghiên cứu là các từ, với mục đích là xác định các quy tắc cấu tạo từ, đặc điểm ngữ pháp của các từ loại.
Cú pháp học: nghiên cứu các quy tắc cấu tạo cụm từ và cấu tạo câlhy67kết hợp các từ, cụm từ thành câu, tổ chức các thành phần câu và các kiểu câu).
Như vậy so với ngữ âm và từ vựng thì ngữ pháp có tính khái quát cao hơn: Những khái niệm Ngữ pháp bao quát hàng loạt hiện tượng ngôn ngữ, những quy tắc
Ngữ pháp hoạt động trong hàng loạt đơn vị ngôn ngữ cụ thể.
2. Tích hợp - cơ sở để phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu của sinh viên
Tính khái quát của Ngữ pháp là một điều kiện thuận lợi cơ bản để vận dụng hướng tích hợp trong việc dạy học học phần này. Cùng một bài học Ngữ pháp, giáo viên có thể tích hợp kiến thức của các phân môn Tiếng Việt, tích hợp dạy học lý thuyết với thực hành, tích hợp việc dạy kiến thức với dạy văn hóa.
Trong chương trình phổ thông hiện nay, học sinh được học các kiến thức Ngữ pháp theo quan điểm tích hợp dọc (cấu trúc đồng tâm). Từ tiểu học, học sinh đã làm quen và nhận diện các khái niệm ngữ pháp. Ở bậc THCS, học sinh tiếp tục tìm hiểu đầy đủ hơn việc phân tích và thực hành các khái niệm, các quy tắc ngữ pháp.
Ví dụ: ở Tiểu học, học sinh được dạy nhận diện danh từ thông qua các bài t ập “tìm từ chỉ sự vật” (lớp 2, 3), từ đó tìm hiểu các khái niệm danh từ và phân loại danh từ (lớp 4), các em nhận diện cụm danh từ qua các bài học về câu. SGK không cung cấp khái niệm cụm danh từ và không yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo của cụm từ như trước đây.
Ở bậc THCS, học sinh lớp 6 được dạy một cách hệ thống hơn về danh từ, cụm danh từ (khái niệm, quy tắc kết hợp, chức năng cú pháp…).
Về câu, ở bậc tiểu học, học sinh không phải học phân loại câu theo cấu tạo và theo mục đích nói mà được lần lượt học về cách đặt câu hỏi, câu kể, câu khiến, câu cảm. Các mô hình cấu trúc câu Ai (cái gì, con gì)ở đâu ?Ai (cái gì, con gì) thế naò? Ai (cái gì, con gì) là gì ? được dạy như những câu kể cụ thể.
Cấu trúc cú pháp của câu đơn, câu ghép, phân loại câu ghép… học sinh được học kỹ hơn ở lớp 6 và lớp 8, các kỹ năng rút gọn câu, mở rộng câu, chuyển đổi câu… được thực hành ở lớp 7, mỗi lớp ở bậc THCS đều có các bài lý thuyết và thực hành về câu.
Do vậy, đến bậc THPT, học sinh không tìm hiểu các khái niệm ngữ pháp cơ bản và các từ loại nữa mà chủ yếu đi vào thực hành việc sử dụng câu như thế nào cho đạt hiệu quả giao tiếp. Mặt khác, những bài học ở chương trình THPT còn chú trọng các bình diện khác của câu, đó là bình diện nghĩa học và dụng học (Nghĩa của câu, Ngữ cảnh).
Với quan điểm tích hợp xuyên suốt trong quá trình xây dựng chương trình, sách giáo khoa như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho để giáo viên có thể phát triển năng lực tự học cho sinh viên ngành sư phạm Ngữ văn hiện nay.
3. Phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên ngành Sư phạm Ngữ văn
3.1. Khái niệm tự học
Tự học là tự suy nghĩ, sử dụng năng lực tư duy của bản thân để đạt được sự hiểu biết về một tri thức nào đó. Đây là một quá trình học tập tự giác, tích cực nhằm tự chiếm lĩnh tri thức khoa học để tự hướng tới những mục đích nhất định. Tự học ở đây không phải là tự học không có thầy, mà ở đây, vai trò của thầy là tổ chức, hướng dẫn SV phát huy khả năng tự tìm tòi, tự phát hiện vấn đề.
Và tự học không có nghĩa chỉ là việc học ngoài giờ lên lớp, mà tự học ở đây còn là hoạt động học diễn ra trên lớp dưới sự hướng dẫn, tổ chức, chỉ đạo của người thầy, người học phải động não, tìm tòi, phát hiện, phân tích, khái quát để chiếm lĩnh tri thức khoa học bằng chính tư duy của mình.
Có thể nói, khả năng tự học luôn tiềm ẩn trong mỗi con người và điều quan trọng trong dạy học là giáo viên (GV) phải biết khơi dậy khả năng này của sinh viên (SV). Như vậy để hoạt động học có hiệu quả, quá trình tổ chức dạy học phải làm cho hoạt động của SV chuyển sang tự học.
3.2. Một số giải pháp nhằm phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu cho SV qua phân môn Ngữ pháp Tiếng Việt
Để hướng dẫn SV tự học có hiệu quả, GV cần tổ chức các hoạt động như sau:
- Hoạt động làm mẫu: Trước khi giao cho SV tự học một bài học hay một vấn đề nào đó, nên lưu ý SV cách GV ghi chép, khai thác kiến thức, vận dụng các thao tác tư duy… trong các giờ dạy trước đó để SV có ý thức đó là những hoạt động mẫu mà sau này mình sẽ vận dụng khi tự học.
- Hướng dẫn SV tự học: giới thiệu phương tiện nhận thức (nguồn ngữ liệu, tư liệu tham khảo…), hướng dẫn cách khai thác tài liệu bằng cách đặt ra cho SV một hệ thống câu hỏi để SV tự suy nghĩ, tóm tắt tài liệu, khái quát vấn đề.
- Hướng dẫn SV thảo luận nhóm.
- Hướng dẫn SV tự đánh giá kiến thức mà mình tự học và quá trình tự làm việc của bản thân cũng như đánh giá phần kiến thức mà nhóm bạn trình bày.
- Bổ sung những kiến thức SV còn thiếu hoặc điều chỉnh những kiến thức sai lệch của SV, nhận xét, đánh giá về quá trình tự học của SV.
3.2.1. Hướng dẫn SV tự học qua các giáo trình Ngữ pháp tiếng Việt ( Giáo trình bắt buộc và tham khảo)
+ Mục đích: Giúp SV có ý thức tìm hiểu và nắm được khái quát nội dung bài học trước khi đến lớp, rút ngắn thời gian đọc tài liệu tại lớp cũng như thời gian GV thuyết giảng, SV được củng cố kiến thức nhiều lần.
Phương pháp đọc sách này không chỉ có tác dụng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri thức của SV, mà còn góp phần rèn luyện cho họ kĩ năng tổng thuật các tài liệu khoa học trên cơ sở có phân tích, đánh giá - đây là một trong những kĩ năng cần phải có, cần phải trang bị cho SV để họ có thể tập dượt làm công tác nghiên cứu khoa học.
Quá trình hướng dẫn bao gồm các bước sau:
+ Bước 1: GV cung cấp tài liệu, nêu yêu cầu của việc đọc, xác định kiến thức trọng tâm, nêu câu hỏi cụ thể về kiến thức. (Những câu hỏi gợi mở có thể rút ra từ những câu hỏi ôn tập ở cuối mỗi chương. Song hệ thống câu hỏi đưa ra phải hướng tới rèn luyện năng lực khái quát, năng lực phân tích nắm bắt một vấn đề cụ thể, và đặc biệt là phải tạo ra được những câu hỏi hướng SV vào việc vận dụng những tri thức đã có, đã được học như là một công cụ để tiếp thu tri thức mới, giải quyết vấn đề mới.)
+ Bước 2: SV đọc tài liệu theo yêu cầu, trả lời các câu hỏi, rút ra các quy tắc ngữ pháp hoặc khái niệm ngữ pháp.
+ Bước 3: Tại lớp, SV trình bày kết quả tự học, các SV khác bổ sung, GV tổng kết, đánh giá.
Lưu ý: Khi đọc sách tham khảo cần phải có sự so sánh, phân tích, nhận xét, đánh giá cách giải quyết vấn đề của từng tác giả, từ đó lựa chọn cho mình một quan điểm mà mình cho là hợp lí, và khi đọc cần phải tiến hành ghi chép, đặc biệt là ghi lại những điều bản thân còn băn khoăn, chưa hiểu để có thể đưa ra trao đổi với giáo viên và bạn bè trong các giờ lên lớp, hoặc ở các buổi xêmina. Và GV cũng cần nói rõ cho SV biết: khi đọc sách tham khảo Ngôn ngữ học về tiếng Việt thì hiện tượng cùng một đơn vị, cùng một cấu trúc ngôn ngữ, ... nhưng giữa các tác giả lại dùng những tên gọi, những cách hiểu, cách lí giải khác nhau là một hiện tượng mang tính phổ biến. Đồng thời lí giải cho SV biết sở dĩ có hiện tượng đó là vì: trong quá trình nghiên cứu các hiện tượng ngôn ngữ cụ thể, các nhà nghiên cứu cũng có lúc băn khoăn, lúng túng trước những hiện tượng trung gian trong ngôn ngữ gây ra.
3.2.2. Hướng dẫn SV tự học Ngữ pháp tiếng Việt qua việc khảo sát ngữ liệu (chuẩn bị trước và trong khi học tại lớp)
+ Mục đích: giúp SV thấy được vai trò quan trọng của ngữ liệu khi học Ngữ pháp, nhận thấy mối liên hệ mật thiết giữa kiến thức ngữ pháp với thực tế giao tiếp.
Quá trình hướng dẫn bao gồm các bước sau:
+ Bước 1: GV cung cấp ngữ liệu hoặc nêu yêu cầu và phạm vi về ngữ liệu để SV tự tìm, đồng thời nêu các yêu cầu về khảo sát ngữ liệu bằng những câu hỏi cụ thể.
+ Bước 2: SV tìm và khảo sát ngữ liệu, rút ra những quy tắc ngữ pháp hoặc khái niệm ngữ pháp.
+ Bước 3: SV trình bày kết quả tự học, các SV khác bổ sung, GV đánh giá kết quả của quá trình tự học.
Lưu ý: Ngữ liệu được sử dụng để học Ngữ pháp tiếng Việt nên lấy từ các văn bản đọc văn ở SGK của các bậc học, cụ thể là các văn bản được sắp xếp trong hoặc gần những tuần học của các bài học về tiếng Việt, thì sẽ phát huy cao độ tinh thần tích hợp.
3.2.3. Hướng dẫn SV tự học Ngữ pháp tiếng Việt qua việc làm bài tập thực hành (sau khi học)
+ Mục đích: giúp SV ôn luyện, củng cố kiến thức, từ đó có thể tự rút ra những kỹ năng làm bài còn thiếu để chú ý rèn luyện, bổ sung thêm.
Quá trình hướng dẫn bao gồm các bước sau:
+ Bước 1: GV nêu bài tập và yêu cầu cụ thể của từng bài tập.
+ Bước 2: SV xác định những kiến thức cần huy động và vận dụng để giải bài tập.
+ Bước 3: SV trình bày kết quả làm bài, SV khác và GV nhận xét .
3.2.4. Hoạt động hướng dẫn SV đọc SGK Ngữ Văn từ lớp 6 đến lớp 9
+ Mục đích: Việc đọc và nghiên cứu SGK Ngữ Văn từ lớp 6 đến lớp 9 trở thành một yêu cầu bắt buộc đối với sinh viên ngành Sư phạm Ngữ Văn. Bởi vì, sau khi ra trường, họ là người trực tiếp dạy Tiếng Việt cho học sinh THCS.Vì vậy, việc nắm bắt được nội dung chương trình Tiếng Việt được đưa vào giảng dạy ở bậc THCS sẽ giúp SV chủ động hơn trong kế hoạch học tập và rèn luyện. Từ đó, sinh viên sẽ dễ dàng xác định được bài học có nội dung liên quan tới học phần Ngữ pháp tiếng Việt nằm ở SGK lớp mấy, tập nào. Đồng thời tạo ra sự hứng thú cho SV trong bước đầu hướng nghiệp.
+ Giúp SV có kế hoạch bổ sung những kiến thức mới của Việt ngữ học đã được đưa vào chương trình THCS, nhưng lại chưa được chú trọng ở chương trình Cao đẳng.
Quy trình hướng dẫn bao gồm các bước sau:
Bước 1:
+ Ngay từ buổi học đầu tiên, GV đã yêu cầu SV tìm hiểu bảng phân phối chương trình Ngữ Văn THCS và lọc ra những bài học thuộc phần Tiếng Việt.
+ Yêu cầu SV so sánh nội dung chương trình Tiếng Việt được học ở Cao đẳng được đưa vào giảng dạy như thế nào ở bậc THCS (dung lượng kiến thức, tên gọi, cách phân loại các đơn vị tiếng Việt… có gì giống và khác nhau. Và nếu có sự khác biệt, yêu cầu SV lí giải những sự khác biệt đó).
Bước 2: SV đọc kĩ nội dung phần tiếng Việt được triển khai ở SGK, từ đó so sánh, tìm ra những điểm giống và khác nhau với chương trình Ngữ pháp tiếng Việt ở bậc Cao đẳng.
Bước 3: SV trình bày kết quả tự học, SV khác nhận xét và GV chốt lại kiến thức.
3.2.5. Hoạt động: Khuyến khích và hướng dẫn SV làm nghiên cứu khoa học
Để việc này trở nên thiết thực, trong quá trình giảng dạy, GV phải khơi gợi được SV niềm yêu thích đối với tiếng Việt. Điều này phụ thuộc rất lớn vào trình độ, nghệ thuật phân tích cái hay, cái đẹp, cái lí thú về tiếng Việt của GV. Đồng thời, GV phải là người có khả năng phát hiện ra tính có vấn đề của các hiện tượng ngôn ngữ cần nghiên cứu để hướng sinh viên vào việc tham gia giải quyết vấn đề.
Quá trình làm NCKH của SV được rèn luyện một cách toàn diện nhất năng lực phát hiện, giải quyết vấn đề và năng lực tư duy sáng tạo.
4. Kết luận
Tự học là một trong những yếu tố quyết định chất lượng học tập, chất lượng đào tạo. Nó là con đường tối ưu để sớm đưa sự nghiệp giáo dục và nền kinh tế nước ta tiến kịp các nước trong khu vực và trên thế giới.
Hình thành năng lực tự học, tự nghiên cứu cho SV giúp các em tự tạo ra cho mình nhu cầu, động cơ, hứng thú trong học tập, nâng cao ý chí và huy động sức lực vượt qua những khó khăn để tiếp thu tri thức, rèn luyện kĩ năng và điều cốt yếu là rèn luyện cho các em thói quen làm việc độc lập. Thói quen này sẽ giúp các em khi rời giảng đường vẫn có khả năng tự học tập và nghiên cứu suốt đời.
ThS. Lê Thị Phương Chi - Khoa Sư phạm