Tóm tắt: Việc nâng cao năng lực tư duy cho sinh viên là vấn đề quan trọng trong tình hình hiện nay, giúp sinh viên có tư duy khoa học trong quá trình học tập và làm việc sau này. Cần xác định, hiểu rõ nội dung phương pháp luận biện chứng duy vật; xác định vấn đề cần giải quyết để chọn đúng phương pháp, gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn; là cơ sở quan trọng để xây dựng năng lực tư duy, nhận thức và giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra một cách đúng đắn.
Văn kiện Đại hội XI, XII của Đảng xác định:“Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước” [3, tr.41]; “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học” [4, tr.115]. Đối với sinh viên, việc học tập phương pháp luận duy vật biện chứng ngay từ năm thứ nhất phải được đặc biệt chú trọng.
1. Vai trò năng lực tư duy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người nói chung, của sinh viên nói riêng
Khi khẳng định vai trò của tư duy (ý thức) đối với nhận thức và cải tạo thế giới, V.I.Lênin đã khẳng định: “Ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan” [8, tr. 228]. Điều này cho thấy, một mặt, thông qua hoạt động tư duy, con người có thể nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan; mặt khác, thông qua hoạt động thực tiễn, con người có thể cải biến hiện thực khách quan theo những lợi ích của mình. Cũng từ đó, có thể khẳng định tư duy khoa học, năng lực tư duy khoa học có vai trò quan trọng đối với cả hoạt động nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn.
Năng lực tư duy biện chứng sẽ giúp cho sinh viên rất nhiều trong quá trình học tập cũng như công tác sau này:
Thứ nhất, luôn tiếp nhận tri thức một cách khoa học, sáng tạo. Tư duy biện chứng sẽ giúp sinh viên cái nhìn toàn diện, phân biệt tri thức đúng, sai; chỉ ra nguyên nhân cái sai, và khẳng định, phát triển tri thức đúng đắn. Sinh viên tự học, tự nghiên cứu, giải thích thực tiễn biến đổi, đưa ra những giải pháp mà thực tiễn đặt ra…
Thứ hai, có phương pháp học tập, làm việc đúng đắn; sinh viên không còn phải học vẹt, học tủ; mà học hiểu, biết vận dụng, biết đánh giá và sáng tạo ra tri thức mới.
Thứ ba, loại bỏ tư duy siêu hình, cứng nhắc, bảo thủ, trì trệ...
2. Nội dung cơ bản rèn luyện phương pháp luận biện chứng duy vật cho sinh viên
Sinh viên có rèn luyện năng lực tư duy qua nhiều môn học, nhưng cơ bản và nền tảng là rèn luyện phương pháp luận biện chứng trong môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (phần 1).
Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật bao gồm: Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật; Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật; Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật; Lý luận nhận thức duy vật biện chứng [1, tr.61-124]. Từ những nội dung này, sinh viên phải biết phương pháp luận được rút ra là gì để vận dụng trong cuộc sống, lao động, học tập của sinh viên. Do đó, rèn luyện phương pháp luận biện chứng duy vật cho sinh viên là rèn luyện các nội dung cơ bản sau:
Một là, rèn luyện cho sinh viên có quan điểm toàn diện trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm toàn diện đòi hỏi sinh viên nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phải xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiện tượng và trong sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác. Trong hoạt động thực tế, sinh viên phải sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động vào đối tượng nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Mặt khác, chúng ta cần giúp cho sinh viên có thể nhận diện và phê phán quan điểm phiến diện, quan điểm chiết trung, ngụy biện.
Hai là, rèn luyện cho sinh viên có quan điểm lịch sử – cụ thể trong nhận thức và hành động. Quan điểm lịch sử – cụ thể đòi hỏi sinh viên trong nhận thức và xử lý các tình huống, giải thích các hiện tượng cần phải xét đến tính đặc thù của đối tượng nhận thức. Khi nhận thức sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể mà trong đó sự vật sinh ra, tồn tại, phát triển. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của từng mối liên hệ cụ thể, trong tình huống cụ thể.
Ba là, rèn luyện cho sinh viên có quan điểm phát triển trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Quan điểm phát triển đòi hỏi sinh viên không chỉ nắm bắt cái hiện đang tồn tại của sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng; phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi, khuynh hướng chung là phát triển đi lên, tức phải thấy được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của nó. Sinh viên phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật thành từng giai đoạn, từ đó có cách tác động phù hợp thúc đẩy sự vật phát triển. Cần giúp sinh viên nhận diện và phê phán quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến trong nhận thức và hành động.
Bốn là, rèn luyện phương pháp luận biện chứng qua nghiên cứu phương pháp luận rút ra từ các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật: cái riêng và cái chung, nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực.
Năm là, rèn luyện phương pháp luận biện chứng qua nghiên cứu những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Với quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại, giảng viên cần rèn luyện cho sinh viên trong nhận thức và hành động phải biết đi từ những tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất, cách thức tích lũy về lượng (tăng về số lượng, thay đổi cách sắp xếp các yếu tố cấu thành, hay cả hai), phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy thông qua vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy. Cần khắc phục hai tư tưởng trái ngược nhau là tư tưởng tả khuynh (nôn nóng, bất chấp quy luật, chủ quan duy ý chí) và tư tưởng hữu khuynh (bảo thủ, trì trệ). Với quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, giảng viên cần rèn luyện cho sinh viên hiểu sâu sắc rằng, để nhận thức đúng đắn bản chất của sự vật, hiện tượng và tìm ra phương hướng, giải pháp hiệu quả thì phải nghiên cứu, phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật; phải xem xét sự vật trong thể thống nhất những mặt (nét tương đồng), những khuynh hướng trái ngược nhau, tìm ra những mặt đối lập và những mối liên hệ, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó; phải biết phân loại mâu thuẫn để đưa ra phương pháp đấu tranh cho phù hợp (tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật phát triển). Đối với quy luật phủ định của phủ định, giảng viên cần rèn luyện cho sinh viên nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật là đường “xoáy ốc”, hiểu rõ quá trình phát triển của sự vật không phải lúc nào cũng đi theo đường thẳng, mà nhiều khi diễn ra quanh co, phức tạp, bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau và ở mỗi chu kỳ này, sự vật có những đặc điểm riêng biệt, nên phải có cách tác động phù hợp, phải biết ủng hộ cái mới, đồng thời kế thừa có chọn lọc những cái vốn có tinh hoa của cái cũ…
Sáu là, rèn luyện phương pháp biện chứng cho sinh viên nghiên cứu nội dung Lý luận nhận thức duy vật biện chứng. Cần rèn luyên sinh viên nắm vững quan điểm thực tiễn, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa giáo điều. Nhận thức là một quá trình, lặp đi lặp lại không có điểm dừng: từ thực tiễn tới nhận thức – từ nhận thức lại trở về thực tiễn – từ thực tiễn tiếp tục quá trình nhận thức và loài người càng tiến dần đến chân lý. Sinh viên phải nhận thức được chân lý là khách quan, chống những quan điểm chủ quan cho rằng chân lý là thuộc về kẻ mạnh, chân lý thuộc về đa số, chân lý là lý lẽ hợp lý, chân lý gắn với lợi ích…; phê phán chủ nghĩa tuyệt đối và chủ nghĩa tương đối, cần xác định chân lý vừa mang tính tương đối, vừa mang tính tuyệt đối và chân lý là cụ thể. Theo Lênin: bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể ở mỗi tình hình cụ thể; rằng phương pháp của Mác trước hết là xem xét nội dung khách quan của quá trình lịch sử trong một thời điểm cụ thể nhất định [7, tr. 364].
Phương pháp luận biện chứng phải được xét trên lập trường duy vật, nên phải chú ý phần thế giới quan duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
3. Vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật để nâng cao năng lực tư duy cho sinh viên
Thứ nhất: Trang bị tri thức đầy đủ về phương pháp luận biện chứng duy vật cho sinh viên. Cần tập trung cho sinh viên nắm vững phương pháp luận được rút ra từ lý luận phép biện chứng duy vật: quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm phát triển, quan điểm thực tiễn; phương pháp luận được rút ra từ các cặp phạm trù, các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật… Trong quá trình giảng dạy cần so sánh, phân tích lý luận, nêu vấn đề cho sinh viên giải quyết, sau đó kết luận. Chẳng hạn: Vì sao sự phát triển diễn ra theo đường “xoáy ốc” mà không theo đường thẳng hoặc theo vòng tròn khép kín? Cần đưa ra những cứ liệu cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy để chứng minh.
Thứ hai: Luyện tập cho sinh viên các phương pháp biện chứng thông qua thực tiễn cách mạng, trong cuộc sống đầy biến đổi không ngừng….
Ví dụ: Đảng ta đã vận dụng nguyên tắc khách quan trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam như thế nào?
Sinh viên có thể chỉ ra sự vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật như thế nào qua câu nói của Hồ Chí Minh: “… Nhận xét cán bộ không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc, mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ” [5, tr.479]; “Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ” [6, tr.234]; hay tìm những câu thơ, tục ngữ, ca dao, danh ngôn phản ánh tư tưởng triết học duy vật biện chứng.
Cho một ví dụ trong thực tiễn để làm rõ sự vận động, phát triển của sự vật chịu tác động đồng thời cả ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật…
Thứ ba: Định hướng cho sinh viên có ý thức tự vận dụng phương pháp luận biện chứng trong quá trình học tập, trong cuộc sống bản thân. Muốn nâng cao năng lực tư duy sinh viên cần nắm vững, áp dụng triệt để phương pháp luận biện chứng duy vật trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Ví dụ: Vận dụng quan điểm toàn diện để phân tích một hiện tượng hóa học, vật lý…; Vận dụng quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể trong quá trình học tập của bản thân. Trong quy luật phủ định của phủ định có thể định hướng cho sinh viên vận dụng tính kế thừa của phủ định biện chứng trong cuộc sống, học tập của sinh viên; Hoặc bản thân sinh viên cần kế thừa như thế nào về truyền thống văn hóa dân tộc? Dựa vào phương pháp luận của cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả để rèn luyện đạo đức bản thân. Sinh viên phải nhận thức được bất cứ kết quả nào cũng có nguyên nhân của nó, từ đó sinh viên có ý thức làm việc thiện, tránh việc ác. Luyện tập cho sinh viên biết vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật vào trong thực tiễn, cuộc sống thông qua những vấn đề: Hãy vận dụng phương pháp luận rút ra từ mối liên hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Thứ tư: Thường xuyên kiểm tra, đánh giá phương pháp biện chứng cho sinh viên. Có thể kiểm tra bài tập về nhà thông qua thảo luận nhóm, kiểm tra kiến thức bằng câu hỏi ngắn, bài tập trắc nghiệm, hay giải thích một hiện tượng nào đó trong cuộc sống. Ví dụ: Giải thích có hiện tượng học giỏi mà thi rớt đại học trên cơ sở lý luận phép biện chứng duy vật? Hoặc, hãy dựa vào quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử – cụ thể để phân tích nguyên nhân thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Tóm lại, để nâng cao năng lực tư duy của sinh viên thông qua rèn luyện phương pháp biện chứng duy vật, giảng viên cần xác định trọng tâm, nắm vững nội dung và phương pháp dạy học, gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, thường xuyên kiểm tra sinh viên dưới nhiều hình thức, định hướng vận dụng trong cuộc sống bản thân. Rèn luyện phương pháp biện chứng duy vật cho sinh viên, sẽ góp phần quan trọng vào việc xây dựng năng lực nhận thức biện chứng, nâng cao năng lực tư duy biện chứng và giải quyết tốt các vấn đề cuộc sống, học tập, làm việc một cách khoa học của họ sau này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016), “Giáo Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[2] C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), “Toàn tập, t.20”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII”, Nxb GP-CXBIPH.
[5] Hồ Chí Minh (1974), “Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ”, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
[6] Hồ Chí Minh (1996), “Toàn tập, t.5”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[7] V.I.Lênin (1977), “Toàn tập, t.42”, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
[8] V.I.Lênin (1981), “Toàn tập, t.29”, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
TS. Vũ Thị Kim Oanh
Tổ Chính trị, Khoa Lý luận cơ bản