Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt cuộc đời cống hiến trọn vẹn cho độc lập, tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Người đã ra đi mãi mãi nhưng những tư tưởng của Người luôn là di sản văn hóa vô giá của dân tộc Việt Nam. Một trong những tư tưởng quý giá cần được vận dụng rộng rãi trong giai đoạn hiện nay là tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh công tác trong nghề dạy học không nhiều, tuy nhiên, những tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục bắt nguồn từ đây. Người đã dành sự quan tâm và tình cảm rất lớn cho thế hệ trẻ - thế hệ nắm giữ vận mệnh của dân tộc, quyết định tương lai của đất nước. Ngày nay, mấy thập kỷ đã trôi qua nhưng những tư tưởng của Người về giáo dục tiếp tục được vận dụng trong công cuộc giáo dục thế hệ trẻ.
1. Khái quát tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục
1.1. Về vai trò của giáo dục
Người đánh giá rất cao vai trò của giáo dục đối với sự hưng thịnh của đất nước, với nhiệm vụ nâng cao dân đức, mở mang dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, là động lực của sự phát triển, đưa nước nhà tiến tới giàu mạnh, dân chủ, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu.
Khi cách mạng tháng Tám thành công, nước ta hơn 90% mù chữ, nên ngay trong phiên họp đầu tiên của chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (3/9/1945) khi đề cập đến những nhiệm vụ cấp bách, Người nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” [8, tr. 8].
Trong thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên dưới chế độ dân chủ cộng hòa tháng 9/1945 Người viết:“…Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quanh để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ phần lớn ở công học tập của các em” [1, tr. 32].
Tại lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc, ngày13/9/1958, chủ tịch Hồ Chí minh đã có bài nói quan trọng về nhiệm vụ của người thầy giáo đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo, Người căn dặn: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” [3, tr. 222]. Như vậy, có thể thấy rằng Người quan niệm vai trò của giáo dục quan trọng ở mức độ nào. Vì thế, Người luôn đề cao sứ mệnh của người thầy giáo – người có vai trò chủ đạo trong quá trình giáo dục: “Có gì vẻ vang hơn nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản? Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất…, những người thầy giáo tốt là những người anh hùng vô danh…Nếu không có người thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân, thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa xã hội được? Vì vậy, nghề thầy giáo là nghề rất quan trọng, rất vẻ vang” [2, tr. 31].
1.2. Về nội dung của giáo dục
Thứ nhất là phải giáo dục toàn diện:
Theo Hồ Chí Minh, nền giáo dục Việt Nam thời đại mới phải là nền giáo dục nhằm phát triển con người toàn diện, Người viết: “Đào tạo các em thành những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em” [3, tr. 40].
Trong thư gửi các em học sinh nhân ngày mở trường (24/10/1955), Người nhắn nhủ việc giáo dục gồm có:
- Thể dục: Để làm cho thân thể mạnh khỏe, đồng thời cần giữ gìn vệ sinh riêng và vệ sinh chung.
- Trí dục: Ôn lại những điều đã học, học thêm những tri thức mới
- Mỹ dục: Để phân biệt cái gì là đẹp, cái gì là không đẹp
- Đức dục: Là yêu tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu trọng của công” [8, tr. 74].
Cả 4 nội dung trên được Hồ Chí Minh khái quát trong chữ “tài” và “ đức”.
Thứ hai là giáo dục theo hướng phục vụ tổ quốc và nhân dân:
Giáo dục gắn với mục tiêu của đất nước. Theo Người, nền giáo dục mới phải là: “Học để làm việc, để làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại” [5, tr. 684].
Thứ ba là giáo dục ý thức học tập và rèn luyện đạo đức là việc làm suốt đời, rèn luyện bền bỉ, thường xuyên, ở mọi nơi, mọi lúc:
Người viết: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời…Không ai có thể tự cho mình biết đủ rồi, thế giới ngày nay đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ. Cho nên chúng ta phải tiếp tục phải học hành để tiến kịp nhân dân” [6, tr. 591]
1.3. Về phương pháp giáo dục
Hồ Chí Minh coi trọng phương pháp giáo dục. Người nhấn mạnh, muốn giáo dục có kết quả tốt thì phải có phương pháp giáo dục đúng đắn. Theo Người phương pháp giáo dục cơ bản và hiệu quả nhất đó là: Học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn. Người nói: “Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau” [7, tr. 333]. Người cho rằng: “Một người học xong đại học có thể được gọi là có trí thức. Song, y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: Công việc thực tế y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải là ý thức hoàn toàn. Y muốn thành người trí thức hoàn toàn, thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế” [4, tr. 504].
Người phân tích: “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn hoặc bắn lung tung cũng như không có tên. Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng để đi lòe thiên hạ thì lý luận ấy cũng vô ích. Vì vậy chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành” [4, tr. 472].
1.4. Giải pháp phát triển giáo dục
Giải pháp giáo dục được Hồ Chí Minh đề cập là vấn đề kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Người nói: “Giáo dục trong nhà trường, chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy, nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả không hoàn toàn” [5, tr. 495].
Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng cần phải có sự quan tâm phối hợp của nhiều ngành, nhiều cấp và nhiều người. Người nhắc nhở: “Các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, các cơ quan chính quyền và các cấp ủy Đảng phải thực sự quan tâm đến nhà trường, đến việc hoạc tập của con em mình hơn nữa” [7, tr. 620].
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong công tác giáo dục học sinh phổ thông trung học
2.1. Những hạn chế trong công tác giáo dục phổ thông hiện nay
Hiện nay sự vận dụng tư tưởng của Hồ Chí minh về giáo dục trong giáo dục học sinh phổ thông còn nhiều hạn chế: Người giáo viên còn xem trọng vấn đề truyền đạt tri thức hơn việc giáo dục nhân cách cho học sinh. Một bộ phận giáo viên không đủ phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, làm ảnh hưởng đến truyền thống “tôn sư trọng đạo” của người Việt Nam. Mặt khác, môn Giáo dục công dân là bộ môn chính để giáo dục nhân sinh quan, lý tưởng sống cho các em chưa được chú trọng đúng mức, việc giáo dục toàn diện cho các em cũng gặp nhiều khó khăn bởi tâm lý “môn chính, môn phụ” của học sinh khiến các em ít xem trọng các môn học bổ trợ. Bên cạnh đó, việc vận dụng phương pháp “học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn” chưa thực sự đạt hiệu quả cao, đặc biệt là ở các trường thuộc khu vực nông thôn hoặc miền núi. Quá trình phối hợp giữa các môi trường giáo dục các em chưa thực sự được chặt chẽ và thống nhất. Những hạn chế trên còn gặp phải khó khăn khi đối tượng giáo dục là học sinh phổ thông trung học đang ở giai đoạn phát triển tâm sinh lý phức tạp, đã hình thành cơ bản về mặt nhận thức, trí tuệ và vẫn tiếp tục phát triển hoàn thiện. Vì vậy, trước thực trạng nêu trên cần phải vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục như thế nào trong giáo dục học sinh phổ thông trung học ngày nay để đạt được hiệu quả cao?
2.2. Một số giải pháp cụ thể
Một là phải luôn ý thức được tầm quan trọng của giáo dục đối với học sinh phổ thông trung học. Từ đó vừa chú ý chăm lo giảng dạy tri thức đồng thời vừa giáo dục nhân cách cho học sinh
Giáo viên phải luôn trau dồi kiến thức chuyên môn thật tốt, có phương pháp truyền đạt tri thức phù hợp, hiệu quả. Đồng thời người giáo viên phải rèn luyện phẩm chất đạo đức của người công dân tốt, phải có đạo đức nghề nghiệp tốt - là nhân cách nhà giáo được tôn vinh trong truyền thống tôn sư trọng đạo của người Việt Nam. Mỗi người giáo viên phải là tấm gương sáng về mặt trí tuệ cũng như về nhân cách đạo đức để các em noi theo.Trong quá trình giảng dạy giáo viên phải luôn kết hợp vừa giảng dạy tri thức vừa giáo dục nhân cách cho học sinh để giúp các em vừa được học kiến thức chuyên môn, vừa học cách làm người. Người giáo viên cần phải luôn ý thức được sản phẩm của mình là con người, là thế hệ trẻ - người nắm giữ vận mệnh dân tộc, tương lai đất nước. Các em cần phải được đào tạo phát triển toàn diện, đúng hướng mới giúp đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững hội nhập quốc tế. Sâu xa hơn nữa, các trường đại học, cao đẳng đào tạo ngành sư phạm cần phải được nghiêm túc đầu tư thích đáng, đúng đắn và có giải pháp phù hợp để đào tạo được những người thầy, người cô vừa “hồng” vừa “chuyên”, đủ sức gánh vác việc giáo dục tạo ra một thế hệ trẻ tương lai của đất nước phát triển tốt mọi mặt. Để có một người trò phát triển tốt cần phải có một người thầy tốt, để có một thế hệ trò tốt thì cần một thế hệ thầy, cô tốt. Làm được như thế chính là chìa khóa mở ra cánh cửa đưa nước ta tiến tới: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hai là thực hiện mục tiêu xây dựng một nền giáo dục toàn diện, giáo dục theo hướng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân
Một nền giáo dục thành công là một nền giáo dục phát triển toàn diện con người về trí tuệ, sức khỏe, đạo đức, thẩm mỹ. Đối với học sinh nói chung, học sinh phổ thông trung học nói riêng giáo dục toàn diện đối với các em là luôn cần thiết. Bởi vì các em cần có được kiến thức cơ bản, chuyên môn phát triển trí tuệ để các em dựa vào đó mới có thể làm được những công việc mà các em dự tính trong tương lai. Trong cuộc sống, từ những điều nhỏ nhất đều phải học tập, phải có kiến thức nhất định mới có thể làm việc được. Ở phạm vi lớn hơn, muốn có một đất nước khoa học kỹ thuật phát triển cần có những trí thức xuất sắc. Bên cạnh đó, cần chú ý đến các môn học bổ trợ khác cho học sinh như đạo đức, sức khỏe, thẩm mỹ. Giáo dục đạo đức giúp các em phân biệt được đúng, sai, việc nên làm và việc không nên làm; giúp các em hiểu và ý thức được trách nhiệm của mình với người thân, với các mối quan hệ xã hội, với đất nước, với cộng đồng. Giáo dục thẩm mỹ cho các em giúp các em nhận thức được những cái hay, cái đẹp của cuộc sống và biết làm ra những cái hay, cái đẹp tương tự. Khi đã được giáo dục về đạo đức và thẩm mỹ các em sẽ có cách ứng xử thích hợp, có văn hóa trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Tuy nhiên, nếu không có sức khỏe tốt thì dù có trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ tốt cũng hết sức khó khăn trong quá trình làm việc. Vì vậy, cần kết hợp giảng dạy các môn học và rèn luyện sức khỏe, rèn luyện ý thức giữ gìn sức khỏe cho các em học sinh cũng là điều không kém phần quan trọng trong giáo dục hiện nay.
Thực trạng ở các trường phổ thông trung học hiện nay các vấn đề về ý thức thẩm mỹ, văn hóa ứng xử, cũng như vấn đề về sức khỏe của các em đang có nhiều bất cập. Hiện tượng bạo lực học đường những năm gần đây đang gia tăng, văn hóa ứng xử thầy - trò thiếu tôn trọng, ý thức bảo vệ môi trường của các em học sinh còn nhiều hạn chế… Điều đó đặt ra vấn đề cần quan tâm hơn nữa việc giáo dục toàn diện cho các em để các em có đủ tài năng, sức khỏe, phẩm chất đạo đức cống hiến tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó cần giáo dục theo hướng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Từ đó giúp học sinh ý thức về tình yêu quê hương, đất nước; ý thức về trách nhiệm về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay tồn tại một bộ phận không nhỏ học sinh không thích học môn lịch sử, nên chưa có hiểu biết về những trang sử hào hùng của dân tộc trong quá trình chống giặc ngoại xâm. Vì vậy, các em chưa thấy được niềm vinh hạnh, tự hào là “con Lạc, cháu Hồng”, chưa có lòng tự tôn dân tộc, chưa biết ơn đối với thế hệ cha anh đi trước. Hệ quả là các em học sinh còn bàng quan với thời cuộc, chưa có ý thức trách nhiệm đóng góp sức mình vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đây là một thiếu hụt đáng tiếc. Để khắc phục thiếu hụt này cần chú trọng việc giáo dục truyền thống đất nước cho học sinh, giáo dục ý thức về niềm tự tôn dân tộc, về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với tương lai của đất nước. Xây dựng ở các em lý tưởng sống, nhân sinh quan đúng đắn về đất nước, về con người. Các biện pháp cụ thể như tổ chức ở các trường phổ thông trung học: thi tìm hiểu về lịch sử đất nước, thi hùng biện về lịch sử, thi hùng biện về những ước mơ xây dựng đất nước trong tương lai; tổ chức các buổi xem phim tài liệu về lịch sử…
Ba là thực hiện tốt phương pháp giáo dục: Học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn trong giáo dục học sinh phổ thông trung học
Bước đầu cho các em thực hành tất cả các môn có thể thực hành được như vật lý, hóa học, sinh học. Làm sao để những kiến thức các em được học có thể giải thích và áp dụng được vào thực tiễn càng nhiều càng tốt. Từ đó các em biết rằng kiến thức đã và đang học có ý nghĩa thiết thực đối với thực tiễn hàng ngày. Đối với các môn học xã hội như văn học, lịch sử, địa lý trên cơ sở hiểu rõ nội dung kiến thức giúp các em giải thích được những vấn đề về lịch sử, xã hội, thấy được trách nhiệm phải bảo vệ, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc.
Mục đích của việc học tập chính là để có hiểu biết, mục đích của hiểu biết chính là để thực hành, để vận dụng vào cuộc sống làm cho cuộc sống trở nên có định hướng, có ý nghĩa. Như vậy, việc học tập gắn với thực hành và lý thuyết gắn với thực tiễn thì học sinh không chỉ hiểu rõ được nội dung kiến thức mà còn thấy được ý nghĩa của kiến thức mình được tập quan trọng đối với cuộc sống hàng ngày. Chính vì vậy, ở lứa tuổi học sinh phổ thông trung học các em càng cần phải thấy được ý nghĩa của những kiến thức mình được học đối với hiện thực như thế nào thì các em càng thấy hứng thú và tự giác học tập.
Bốn là cần có sự phối hợp tốt, nhất quán giữa các môi trường giáo dục đối học sinh phổ thông trung học
Kết hợp hài hòa và chặt chẽ mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong việc giáo dục học sinh phổ thông trung học sẽ đem lại hiệu quả tốt. Các em ở lứa tuổi này đang trong giai đoạn hoàn thiện nhân cách, phát triển tâm sinh lý phức tạp, việc giáo dục các em cần được sự kết hợp chặt chẽ và nhất quán của ba môi trường giáo dục trên để kịp thời uốn nắn khi các em có những suy nghĩ và hành vi không phù hợp với thuần phong mỹ tục và pháp luật Việt Nam. Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên cũng là môi trường gần gủi nhất đối với các em. Vì vậy, gia đình cần quan tâm sâu sắc những biểu hiện và hành vi của các em, luôn chủ động giúp các em nhận thức về vai trò của tri thức, đạo đức, về kỹ năng sống trong các mối quan hệ xã hội. Gia đình hợp tác với nhà trường trong quá trình giáo dục các em. Khi các em ở trường cần được nhà trường quản lý và quan tâm sát sao đến ý thức, trách nhiệm, học lực, đạo đức, lý tưởng của các em và phối hợp thống nhất với gia đình trong quá trình giáo dục. Nhà trường cần nâng cao vai trò, vị trí, chất lượng bộ môn giáo dục công dân trong trường học. Khi các em tham gia vào các mối quan hệ xã hội khác, cần có sự quan tâm giáo dục từ các tổ chức đó.
Ngoài ra, cần có sự phối hợp tốt giữa các ban ngành, các cấp, các đoàn thể và nhiều người trong quá trình giáo dục học sinh phổ thông trung học. Sự phối hợp này phải đồng thuận, thống nhất quan điểm về cách thức, nội dung giáo dục, tránh trường hợp mỗi ban ngành khác nhau lại có phương pháp giáo dục khác nhau, thậm chí mâu thuẫn với nhau thì không những quá trình giáo dục không đạt được kết quả tốt mà còn gây rối loạn trong quá trình nhận thức của các em, ảnh hưởng không tốt cho các em.
3. Kết luận
Mặc dù tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục đã ra đời và tồn tại từ thế kỷ trước. Song, ý nghĩa và sự vận dụng của nó vẫn đóng vai trò quan trọng đối với sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục học sinh phổ thông trung học nói riêng. Chúng ta tin tưởng rằng, khai thác và vận dụng tốt những tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục trong quá trình giáo dục phổ thông trung học sẽ góp phần tạo nên thế hệ học sinh phát triển toàn diện về tri thức, đạo đức, sức khỏe, thẩm mỹ, lý tưởng, yêu nước đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hồ Chí Minh toàn tập (1995), tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội.
[2] Hồ Chí Minh toàn tập (1996), tập 11, Nxb CTQG, Hà Nội.
[3] Hồ Chí Minh toàn tập (2000), tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội.
[4] Hồ Chí Minh toàn tập (2000), tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội.
[5] Hồ Chí Minh toàn tập (2000), tập 8, Nxb CTQG, Hà Nội.
[6] Hồ Chí Minh toàn tập (2000), tập 10, Nxb CTQG, Hà Nội.
[7] Hồ Chí Minh toàn tập (2000), tập 11, Nxb CTQG, Hà Nội.
[8] Hồ Chí Minh toàn tập (2002), tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội.
Th.S Trịnh Thị Thoa
Tổ GDCT, Khoa Lý luận cơ bản