“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”
Đoàn hành lễ dâng hương giỗ tổ Hùng Vương tiến về khu di tích lịch sử Đền Hùng tại Núi Nghĩa Lĩnh
Thật hiếm có một dân tộc nào trên thế giới có chung một ngày giỗ Tổ như dân tộc Việt Nam. Tự bao đời nay người Việt Nam vẫn luôn tự hào vì có chung một nguồn gốc tổ tiên để nhớ và một đạo thờ cúng tổ tiên để tri ân. Giỗ Tổ Hùng Vương đã trở thành ngày lễ trọng đại của cả dân tộc, in đậm trong cõi tâm linh của mỗi người dân đất Việt. Lễ hội Đền Hùng diễn ra vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch tại Đền Hùng, Việt Trì, Phú Thọ là ngày hội mà mỗi người Việt Nam hướng về nguồn cội để tưởng nhớ, tôn vinh công lao các vị Vua Hùng, không những vậy, đây còn là biểu tượng cho sự hội tụ và lan tỏa của truyền thống đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam.
Vào kỷ Hồng Bàng, truyền thuyết Hùng Vương đã được ghi lại trong Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên năm 1479, chính thức vinh danh các đời vua Hùng trong Quốc sử, ghi nhận các đời vua Hùng có công dựng nước: Kinh Dương Vương lấy con gái Thần Long là Vua Hồ Ðộng Ðình sinh một con trai đặt tên là Sùng Lãm, sau nối ngôi vua cha niên hiệu là Lạc Long Quân, lấy con gái Ðế Lai là bà Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, một trăm trứng nở ra một trăm người con là tổ tiên của người Bách Việt. Trong đó năm mươi người con theo mẹ lên núi, năm mươi người con theo cha về phía Nam miền biển. Người con cả theo mẹ lên vùng đất Phong Châu (nay là Phú Thọ) lập ra nước Văn Lang và được tôn làm Vua Hùng. Văn Lang là nhà nước đầu tiên trong lịch sử của người Việt, được cai trị bởi 18 đời vua. Các Vua Hùng đã dạy dân trồng lúa nước và chọn núi Nghĩa Lĩnh, ngọn núi cao nhất vùng để thực hiện những nghi lễ theo tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp như thờ thần lúa, thần mặt trời để cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, vạn vật sinh sôi, nảy nở. Trong sâu thẳm tâm thức của mỗi người dân Việt Nam, Vua Hùng là vị Tổ đã có công dựng nên quốc gia Văn Lang - nhà nước đầu tiên, sơ khai của dân tộc Việt Nam.
Để ghi nhớ công lao to lớn của các Vua Hùng, nhân dân đã lập đền thờ tưởng niệm (khu di tích lịch sử đền Hùng). Từ trung tâm thờ tự đầu tiên tại núi Nghĩa Lĩnh, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương dần lan tỏa tới khắp các tỉnh thành khác của Việt Nam và có sức sống lâu bền từ đời này qua đời khác. Người Việt thờ cúng các Vua Hùng chính là để tôn vinh dân tộc mình. Đất nước có lúc thịnh lúc suy, có lúc bị giặc ngoại xâm thống trị nhưng Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương vẫn được các thế hệ duy trì đến tận ngày nay. Chính vì thế, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương có vị thế đặc biệt trong tâm thức của mổi người dân Nước Việt, dù ở bất cứ phương trời nào, người Việt Nam đều hướng về nguồn cội trong ngày Quốc lễ hàng năm này với nghĩa tình đồng bào gắn kết, yêu thương, hơn hết đó chính là tinh thần đại đoàn kết của toàn dân tộc
Hàng nghìn người Việt Nam tìm về đền Hùng trong ngày giỗ tổ
Theo bản ngọc phả viết thời Trần, năm 1470 đời vua Lê Thánh Tông và đời vua Lê Kính Tông năm 1601 sao chép đóng dấu kiềm để tại Đền Hùng khẳng định sự hương khói thành kính hướng về cội nguồn, và cũng cho biết những thôn làng trong khu vực không phải đóng thuế để dùng vào việc cúng tế các vua Hùng “… Từ nhà Triệu, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa. Những ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại dùng vào việc cúng tế vẫn không thay đổi...” đến thời nhà nguyễn Vào năm Khải Định thứ hai (1917), Tuần phủ Phú Thọ Lê Trung Ngọc đã trình bộ Lễ định ngày 10 - 3 âm lịch hàng năm làm ngày Quốc lễ. Còn ngày giỗ (11-3) do dân sở tại tổ chức. Kể từ đó, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 10-3 âm lịch hàng năm được chính thức hóa bằng luật pháp. Đây là dịp để giáo dục truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, lòng biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước và các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước.
Tiếp nối truyền thống cao đẹp của ông cha, ngay sau khi cách mạng tháng tám 1945 thành công, Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 22/SL-CTN (ngày 18-2-1946) cho công chức nghỉ ngày 10-3 âm lịch hàng năm để tham gia các hoạt động Giỗ Tổ Hùng Vương- hướng về cội nguồn dân tộc. năm 1946 Trong lễ Giỗ Tổ, cụ Huỳnh Thúc Kháng- Phó Chủ tịch nước đã thay mặt Chính phủ VNDCCH lên làm lễ dâng hương tại Đền Hùng và trang trọng dâng lên bàn thờ tấm bản đồ Việt Nam và thanh kiếm là hai báu vật nói lên ý chí của Chính phủ và nhân dân cả nước trước họa giặc ngoại xâm trở lại và cầu mong Tổ tiên phù hộ cho quốc thái dân an, thiên hạ thái bình cùng nhau đoàn kết, đánh tan giặc xâm lược, bảo vệ đất nước.
Ngày 19/9/1954, trong dịp về thăm Đền Hùng lần đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ, chiến sĩ trước khi về tiếp quản Thủ đô Hà Nội rằng: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Lời dạy đó của Người không chỉ nhắc nhở chúng ta về nguồn gốc tổ tiên, công lao trời biển của thế hệ trước mà còn khẳng định truyền đời cho thế hệ sau phải cùng nhau giữ gìn khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam trong lao động sản xuất, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc để không phụ với tiền nhân.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng, quan tâm đến truyền thống lịch sử văn hoá dân tộc. Năm 1995, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã được Ban Bí thư ghi trong thông báo là ngày lễ lớn trong năm. Tại nghị định số 82/2001/NĐ-CP ngày 06-11-2001 về Nghi lễ Nhà nước, trong đó có nội dung quy định cụ thể về quy mô tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương. Ngày 2-4-2007, Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn sửa đổi, bổ sung Điều 73 của Luật Lao động cho người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương ngày Giỗ Tổ Hùng Vương (10-3 âm lịch). Kể từ đây, ngày 10-3 âm lịch hằng năm đã trở thành ngày Quốc lễ mang ý nghĩa bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Trong ngày này, nhân dân cả nước có điều kiện để tham gia vào các hoạt động văn hóa thể hiện lòng thành kính tri ân các Vua Hùng đã có công dựng nước và các bậc tiền nhân đã vì dân giữ nước.
Ngày 6-12-2012, với những giá trị độc đáo và riêng biệt, “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ” được UNESCO chính thức thừa nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. Theo đánh giá của UNESCO, “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã đáp ứng được tiêu chí quan trọng nhất trong 5 tiêu chí, đó là, di sản có giá trị nổi bật mang tính toàn cầu, khích lệ ý thức chung của mọi dân tộc trong việc thúc đẩy giá trị đó”. Vì vậy, Đây không chỉ là niềm vinh dự, tự hào của Ðảng bộ, nhân dân các dân tộc tỉnh Phú Thọ, của đồng bào cả nước, kiều bào Việt Nam ở nước ngoài mà còn khích lệ nhận thức của cộng đồng nhiều quốc gia trên thế giới về lòng biết ơn tổ tiên, về thái độ tôn trọng sự đa dạng trong thống nhất của nền văn hóa Việt Nam. Sự vinh danh này thật sự là một minh chứng khẳng định “Tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng” là một di sản văn hóa độc đáo cần được giử gìn trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay. Theo tư liệu của Cục Di sản văn hóa, cả nước hiện có 1.417 di tích có thờ cúng Vua Hùng và các nhân vật thời Vua Hùng. Con số này không ngừng phát triển và vẫn đang tiếp tục tăng. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, những người Việt xa Tổ quốc cũng tổ chức Lễ giỗ Tổ, hoặc cùng gia đình thắp nén nhang, nhớ về nguồn cội. Ở trong nước, từ những ngày đầu tháng ba âm lịch, người Việt Nam đã cùng hướng về vùng Đất Tổ, người người trẩy hội đến với Đền Hùng - tìm về nguồn cội của mình. Lễ hội là dịp để con Lạc, cháu Hồng hành hương về nơi đã sinh ra dân tộc Việt Nam anh hùng. Có thể khẳng định rằng, trong các di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam được thế giới công nhận có lẽ tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là di sản có sức sống mạnh mẽ nhất, đồng thời cũng là loại hình có khả năng phát triển nhiều nhất. Bởi không giống như các di sản khác đã được công nhận có yếu tố vùng miền tác động, tín ngưỡng thờ Hùng Vương không phân biệt vùng miền, giới tính hay độ tuổi mà được lớp lớp các thế hệ người dân Việt Nam dù đang sinh sống trên mảnh đất này hay cả những người con xa quê hương vẫn đang âm thầm kế thừa và phát triển.
Nhân dân Việt Nam hướng về ngày giổ tổ không chỉ thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc của mỗi người con đất Việt mà còn trở thành niềm kiêu hãnh của nhân dân ta đối với nhân dân yêu chuộng hoà bình khắp thế giới, bạn bè năm châu càng cảm phục, kính nể dân tộc Việt Nam anh hùng. Thiết nghĩ việc thực hành tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương không chỉ có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đạo lý "Uống nước nhớ nguồn", mà còn là điểm tựa tinh thần, tạo nên sức mạnh đoàn kết các dân tộc Việt Nam và sẽ là tâm điểm gắn kết Việt Nam với thế giới, thế giới với Việt Nam và đây cũng chính là biểu tượng cho truyền thống cố kết cộng đồng dân tộc Việt Nam trong thời kỳ mới. Vì lẻ đó mà bất cứ người Việt Nam nào cũng đều tự hào là con Lạc, cháu Hồng của một dân tộc anh hùng đã gan góc trải qua biết bao khó khăn, thử thách nhưng với tinh thần đại đoàn kết đã làm nên những chiến thắng oanh liệt.
Trước bao biến động thăng trầm của lịch sử, trong tâm thức của cả dân tộc, Đền Hùng vẫn là nơi bốn phương tụ hội, nơi lưu giữ phong tục phụng thờ công đức Tổ tiên và lan tỏa thêm truyền thống đoàn kết trong xây dựng và bảo vệ quê hương. Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng là một dịp để giáo dục truyền thống, lòng biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước – giữ nước đồng thời còn là dịp quan trọng để chúng ta quảng bá ra thế giới về một Di sản vô cùng giá trị, độc đáo, tồn tại hàng nghìn năm đã ăn sâu vào tâm hồn, tình cảm, trở thành đạo lý truyền thống của đồng bào cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài.
Nguyễn Thị Thảo Tiên