Tóm tắt: Dạy học phát triển năng lực là xu hướng cơ bản của dạy học hiện đại cũng như định hướng đổi mới giáo dục phổ thông mà Bộ GD & ĐT đang đặt ra. Chương trình Sư phạm Ngữ văn ở trường Đại học Khánh Hòa có nhiệm vụ đào tạo những giáo viên Ngữ văn tương lai cho các trường phổ thông trên địa bàn tỉnh, hơn lúc nào hết phải nắm bắt được những sự thay đổi đó để có những định hướng tiếp cận phù hợp trong công tác đào tạo. Bài viết đề cập đến vấn đề xây dựng và phát triển chương trình đào tạo Cử nhân Sư phạm Ngữ văn theo xu hướng phát huy năng lực người học nhằm đào tạo ra những giáo viên đáp ứng nhu cầu dạy học môn Ngữ văn trong chủ trương đổi mới toàn diện giáo dục sắp tới.
Từ khóa: Dạy học phát triển năng lực, Ngữ văn, chương trình
1. Dẫn nhập
Đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Nhà trường sư phạm nằm trong hệ thống đào tạo nguồn lực cán bộ giảng dạy cho học sinh bậc trung học phổ thông và trung học cơ sở cũng không thể nằm ngoài xu hướng đổi mới đó. Theo chương trình mới, môn Ngữ văn là một trong những môn chính có tính chất bắt buộc trong cả 3 bậc học và dó đó có vị trí cực kì quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông. Làm thế nào để có thể kịp thời thay đổi và cập nhật được cho sinh viên ngành sư phạm Ngữ văn những vấn đề mới nhất của Bộ GD & ĐT trong khi vẫn phải đảm bảo chuẩn kiến thức nền cho một giáo viên tương lai? Vấn đề này đòi hỏi phải có sự đồng bộ của tất cả các bước trong quá trình đào tạo, mà trước hết là bước xây dựng và phát triển chương trình. Bài viết đề cập đến vấn đề xây dựng và phát triển chương trình đào tạo Cử nhân sư phạm Ngữ văn theo xu hướng phát huy năng lực người học nhằm đào tạo ra những giáo viên đáp ứng nhu cầu dạy học môn Ngữ văn trong chủ trương đổi mới toàn diện giáo dục sắp tới.
2. Cơ sở của việc xây dựng chương trình
Chương trình Đại học Sư phạm Ngữ văn ở trường Đại học Khánh Hòa được xây dựng năm 2015 và thường xuyên được phát triển hàng năm. Chương trình hướng đến việc đào tạo sinh viên tốt nghiệp ngành sư phạm Ngữ văn sẽ phụ trách công tác giảng dạy ở các trường trung học phổ thông, trung học cơ sở, trung học chuyên nghiệp; có thể làm cán bộ quản lý giáo dục, phụ trách chuyên môn tại các sở giáo dục và đào tạo; hoặc có thể làm công tác nghiên cứu tại các viện, các trung tâm, các cơ quan đoàn thể xã hội khác có nhu cầu sử dụng (hoạt động trong lĩnh vực báo chí, xuất bản; theo dõi và quản lý hoạt động văn hóa, văn học, ngôn ngữ .v.v.). Sinh viên có thể học tiếp sau đại học (cao học và nghiên cứu sinh) các ngành: Văn học Việt Nam, Văn học nước ngoài, Lí luận văn học, Ngôn ngữ học, Lý luận và phương pháp giảng dạy Văn học; Lý luận và phương pháp giảng dạy Tiếng Việt.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Do đó, chương trình sư phạm Ngữ văn được xây dựng dựa trên các mục tiêu về năng lực như sau:
- Năng lực chuyên ngành Ngữ văn: Có các kiến thức cơ bản về ngôn ngữ và tiếng Việt, văn học và văn hóa; có năng lực vận dụng các kiến thức trên vào việc dạy học Ngữ văn ở trường trung học phổ thông
- Năng lực dạy học
+ Năng lực thiết kế, thực hiện kế hoạch dạy học và bài dạy Ngữ văn ở trường trung học phổ thông;
+ Năng lực xây dựng, quản lý và sử dụng hồ sơ dạy học;
+ Năng lực tổ chức hoạt động dạy học, vận dụng các lí thuyết và phương pháp dạy học hiện đại vào việc dạy học Ngữ văn; cập nhật các phương thức, phương pháp dạy học theo hướng tiếp cận năng lực;
+ Năng lực dạy học phân hóa và tích hợp;
+ Năng lực tổ chức kiểm tra - đánh giá chất lượng học sinh.
- Năng lực giáo dục
+ Năng lực tổ chức hoạt động giáo dục; Năng lực tổ chức và quản lý lớp học;
+ Năng lực thiết kế và thực hiện kế hoạch giáo dục;
+ Năng lực xây dựng, quản lý và khai thác hồ sơ giáo dục học sinh.
Như vậy, ở nước ta hiện nay, bài toán đang đặt ra là phải tiếp cận, nghiên cứu và vận dụng hướng tích hợp như thế nào cho hiệu quả vào việc xây dựng chương trình không chỉ đối với bậc đại học mà với cả bậc phổ thông.
3. Các hướng ứng dụng tích hợp trong việc phát triển chương trình sư phạm Ngữ văn nhằm đáp ứng dạy học phát huy năng lực người học
3.1. Cách tiếp cận
Theo định hướng tiếp cận năng lực cá nhân, chương trình đào tạo cần phải được thiết kế mềm dẻo, linh hoạt, đáp ứng yêu cầu cá thể hóa. Với người học, tiến trình đào tạo có thể co giãn tùy theo nhu cầu và khả năng của họ với nỗ lực đạt được các năng lực theo chuẩn đầu ra. Trong quá trình này, người học được lựa chọn các môn học phù hợp với định hướng nghề nghiệp, năng lực và sở thích cá nhân …Với người dạy, từ những hoàn cảnh, những điều kiện cụ thể được linh hoạt điều chỉnh chương trình đào tạo trong phạm vi nhất định, được chủ động lựa chọn sử dụng các phương pháp, cách thức giảng dạy khác nhau…nhằm giúp người học đạt được các mục tiêu về năng lực theo chuẩn đầu ra.
Hướng tích hợp trong trường hợp này được chúng tôi tiếp cận chủ yếu ở góc độ phương thức, phương tiện (vì theo hồ sơ năng lực mới, tích hợp cũng được coi là một trong những năng lực quan trọng). Phát triển năng lực là mục tiêu cần phải đạt đến của chương trình đào tạo đồng thời là hệ quy chiếu quy định các hướng tích hợp cụ thể. Theo đó, chúng tôi xây dựng hướng tích hợp dựa trên cơ sở hướng đến các mục tiêu năng lực chung và năng lực cụ thể của chương trình sư phạm Ngữ văn.
3.2. Cấu trúc chương trình đào tạo theo hướng tích hợp:
Trên cơ sở quan điểm tích hợp, chúng tôi quan niệm mỗi năng lực do nhiều hợp phần kiến thức tạo nên; ngược lại, mỗi hợp phần kiến thức hướng đến nhiều năng lực khác nhau. Vấn đề ở đây là việc xác định năng lực cốt lõi và các năng lực “vệ tinh” của từng hợp phần kiến thức.
Trên cơ sở đó, chúng tôi thiết kế các học phần chuyên ngành theo cấu trúc sau:
- Môn giới thiệu ngành
- Môn chuyên ngành
- Môn chuyên sâu
Bảng minh họa thiết kế chương trình Sư phạm Ngữ văn theo xu hướng tích hợp
TT |
Nhóm kiến thức |
Các học phần cụ thể |
Mục tiêu kiến thức |
Mục tiêu về năng lực học tập, nghiên cứu |
Mục tiêu về năng lực nghiệp vụ |
1 |
Giới thiệu ngành |
- Nhập môn VHDG
- Nhập môn Văn học Trung đại
- Nhập môn VH hiện đại
- Nguyên lý lí luận văn học
... |
Kiến thức nhập môn (Các khái niệm, phương pháp tiếp cận, đặc trưng thi pháp, lịch sử phát triển...) |
Năng lực khái quát, tổng hợp kiến thức VH sử, thi pháp VH... |
- Dạy học VH sử
- Dạy học theo đặc trưng thi pháp |
2 |
Chuyên ngành |
- Văn học trung đại 1
- Văn học trung đại 2
- Văn học hiện đại 1
- Văn học hiện đại 2
... |
Kiến thức về tác giả, tác phẩm, các đỉnh cao VH của một giai đoạn VH cụ thể |
Đánh giá, phân tích tác giả, tác phẩm VH cụ thể |
Giảng dạy tác giả, tác phẩm cụ thể ở trường PT |
3 |
Chuyên sâu |
- Hệ thống thể loại VH trung đại VN
- Nguyễn Trãi và Nguyễn Du trong tiến trình VH Việt Nam
- Tiểu thuyết, truyện ngắn VN đương đại - nhìn từ sự tương tác thể loại
... |
Các vấn đề Vh nổi bật (tác gia VH, thể loại VH...) |
Nghiên cứu chuyên sâu về các vấn đề văn học |
Dạy học theo chuyên đề |
Từ bảng minh họa cho quan điểm thiết kế chương trình sư phạm Ngữ văn theo hướng tích hợp ở một số học phần văn học cho thấy:
Quan điểm xây dựng và phát triển chương trình ở đây là đáp ứng nhu cầu đổi mới. Điểm cốt lõi là cần xác định mục tiêu trang bị kiến thức về văn học (văn học sử, tác giả, tác phẩm, lí luận văn học) và kiến thức về tiếng Việt (các đơn vị ngôn ngữ, cú pháp, kiểu văn bản …), Tập làm văn (các dạng bài tập làm văn) không phải là duy nhất, trọng yếu như từ trước đến nay nữa mà bên cạnh đó các mục tiêu về kĩ năng, năng lực sư phạm cũng cần phải có những bước tiến mới. Ở đó, mục tiêu đào tạo người giáo viên ngữ văn có năng lực dạy học theo hướng phát triển năng lực người học (năng lực tiếp nhận và tạo lập văn bản; năng lực thể hiện cảm xúc thẩm mĩ, bồi dưỡng tình cảm nhân văn cao đẹp) phải được đặt lên hàng đầu (thay vì mục tiêu trang bị kiến thức hàng đầu như từ trước đến nay). Từ triết lý giáo dục khoa cử, từ chương với mục tiêu chủ yếu là tiếp cận kiến thức đến triết lý giáo dục theo định hướng phát triển năng lực, chú trọng tính chất tổng hợp và đa diện của năng lực bao gồm cả kiến thức, kĩ năng và thái độ, chú trọng mối quan hệ gắn kết giữa lý luận và thực tiễn, giữa học và hành, giữa dạy chữ và dạy người…. chúng tôi phát triển chương trình hướng tới phát triển năng lực người học.
Hơn thế, trong quá trình xây dựng chương trình chúng tôi cũng chú trọng đến việc kết hợp việc đào tạo kĩ năng nghiệp vụ nghề nghiệp với việc cung cấp kiến thức chuyên ngành. Với một số ví dụ ở các học phần văn trong bảng trên, chúng tôi đã lồng ghép kiến thức chuyên ngành và kiến thức nghiệp vụ trong các học phần cụ thể. Điều đó được thể hiện ngay trong mục tiêu cần đạt của từng môn học. Như vậy, chúng tôi qua niệm: Việc đào tạo kiến thức nghiệp vụ cho SV không còn là quyền/nghĩa vụ của riêng giảng viên phương pháp nữa mà là nhiệm vụ của tất cả các giảng viên giảng dạy các môn chuyên ngành từ cơ bản đến chuyên sâu.
Việc thiết kế như trên hướng đến tích hợp giữa kiến thức tổng quan và kiến thức chuyên ngành; giữa kiến thức chuyên ngành cơ bản và kiến thực chuyên ngành chuyên sâu. Cách thiết kế trên cũng khắc phục được những hạn chế về điều kiện môn tiên quyết trong đào tạo theo học chế tín chỉ. Mục tiêu của quan điểm thiết kế này là phát huy cao nhất năng lực người học để họ có thể sử dụng kép thời gian để vừa học kiến thức, vừa học kĩ năng.
3.3. Các hướng tích hợp có thể vận dụng:
- Tích hợp giữa kiến thức chuyên môn và kĩ năng giao tiếp: Trong hồ sơ năng lực đào tạo giáo viên, người xây dựng chương trình luôn đặt kĩ năng giao tiếp thành mục tiêu hướng đến. Chúng tôi coi kĩ năng giao tiếp là một kĩ năng mềm, kĩ năng công cụ rất quan trọng. Với quan điểm, kiến thức nghề nghiệp phải gắn liền với kiến thức, kĩ năng mềm nhằm phục vụ cho nghề nghiệp sau khi ra trường của sinh viên, chúng tôi cũng mạnh dạn đưa và khối kiến thức cơ sở ngành học phần Kĩ năng giao tiếp, HP Ngôn ngữ và hoạt động giao tiếp. Mục đích cuối cùng của chương trình là đào tạo ra những người giáo viên không chỉ dạy tốt chuyên môn mà còn có khả năng giao tiếp tốt và đào tạo được các kĩ năng mềm thiết yếu cho các thế hệ học sinh ở các bậc học phổ thông. Đồng thời chúng tôi cũng xác định: kĩ năng này không phải chỉ do học phần cùng tên đảm nhiệm mà nó phải được thực hiện thống nhất, đồng bộ ở nhiều học phần khác nhau. Bất kì người giảng viên chuyên ngành nào cũng phải nhận thức và có trách nhiệm đào tạo, rèn luyện lĩ năng giao tiếp thông qua học phần của mình.
- Tích hợp giữa kiến thức chuyên môn và năng lực nghiệp vụ. Việc đặt ra một tỉ lệ cao các học phần thuộc modul kiến thức rèn luyện nghiệp vụ sư phạm trong việc đào tạo giáo viên là điều cần thiết. Tuy nhiên, có một cách tiếp cận khác đó là hướng tích hợp đào tạo chuyên môn và nghiệp vụ. Định hướng này bác bỏ quan điểm lâu này vẫn tồn tại đó là việc cho rằng: rèn nghiệp vụ sư phạm thuộc trách nhiệm của giảng viên phương pháp. Ứng dụng quan điểm trên, chúng tôi đặt ra yêu cầu lồng ghép giữa chuyên môn và nghiệp vụ; hai nhiệm vụ này được thực hiện song hành trong từng học phần. Đi đối với kiến thức chuyên môn nào là định hướng ứng dụng, thực hành; đặc biệt là thực hành dạy học phần kiến thức chuyên môn đó.
- Tích hợp giữa kiến thức chuyên môn và năng lực hợp tác, năng lực phản biện, năng lực tự học…
- Tăng thực hành và giảm lí thuyết. Trong quá trình xây dựng chương trình đại học Ngữ văn chúng tôi xây dựng thêm một số học phần có tính thực hành cao như: học phần Thực tế bộ môn, học phần Hoạt động ngoại khóa văn học,…. Đồng thời, chúng tôi tăng thêm tín chỉ ở các học phần phục vụ cho nghiệp vụ; kết hợp định hướng rèn nghiệp vụ xuyên các môn thông qua đề cương chi tiết qua các định hướng câu hỏi và bài tập cho SV chuẩn bị trước khi lên lớp, yêu cầu về tự học, tự nghiên cứu rất rõ ràng trong các hệ thống câu hỏi và bài tập….
Sau khi xây dựng Hồ sơ năng lực của sinh viên ngành sư phạm Ngữ văn, chúng tôi thiết kế ma trận để xây dựng khung chương trình đào tạo. Trong đó, các năng lực hợp tác, năng lực phản biện, năng lực tự học,… được cụ thể hóa vào mục tiêu của nhiều học phần chuyên ngành. Điều đó đồng nghĩa với việc thông qua đào tạo các học phần chuyên ngành, mỗi giảng viên đều phải tham gia rèn luyện các năng lực trên cho sinh viên. Việc thực hiện các năng lực trên phải được cụ thể hóa qua phương thức dạy học, phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra đánh giá…
4. Kết luận
Tóm lại, môn Ngữ văn trong chương trình đổi mới không chỉ là môn bồi dưỡng tâm hồn mà quan trọng hơn là môn công cụ để học sinh có thể vận dụng những kiến thức và kỹ năng đã học ứng dụng vào trong cuộc sống và công việc. Dạy học môn ngữ văn vì thế cũng cần có những thay đổi quan trọng hướng đến việc phát huy năng lực người học trong học tập cũng như giải quyết các tình huống xã hội. Nhà trường sư phạm có nhiệm vụ đào tạo những giáo viên Ngữ văn tương lai cho các trường phổ thông, hơn lúc nào hết phải nắm bắt được những sự thay đổi đó để có những định hướng tiếp cận phù hợp trong công tác đào tạo. Thay đổi đó phải diễn ra trên mọi mặt: từ mục tiêu, chương trình đến giáo trình, tài liệu giảng dạy, phương pháp dạy học cũng như kiểm tra đánh giá.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ GD & ĐT (2014), Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, (Tài liệu tập huấn).
[2] Bộ GD & ĐT (2014), Kinh nghiệm quốc tế về phát triển chương trình giáo dục phổ thông, (Tài liệu Hội thảo)
[3] Bộ GD & ĐT (2015), Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý và giáo viên phổ thông của các cơ sở đào tạo giáo viên, (Tài liệu nội bộ).
[4] Hồ sơ phát triển chương trình, khoa Ngữ văn (2014), Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên
[5] Phạm Hồng Quang (2013), Phát triển chương trình đào tạo giáo viên -Những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb ĐH Thái Nguyên.
[6. Nguyễn Thị Tính (2015), Bồi dưỡng năng lực phát triển chương trình giáo dục cao đẳng, trung học chuyên nghiệp theo định hướng nghề nghiệp ứng dụng, (Tài liệu nội bộ).
[7. Bùi Mạnh Hùng (2015), Đổi mới dạy học Ngữ văn: Phác thảo chương trình Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực, http://www.hcmup.edu.vn/
[8] Website: thuvienphapluat: Chương trình Phát triển ngành Sư phạm và các trường Sư phạm từ năm 2011 đến năm 2020.
[9] Nguyễn Hải Thập (chủ biên) (2016), Phát triển chương trình đào tạo giáo viên phổ thông ngành Ngữ văn (Tài liệu tập huấn cán bộ, giảng viên các cơ sở đào tạo giáo viên phổ thông về phát triển chương trình đào tạo), Hà Nội
[10] Nguyễn Hải Thập (chủ biên) (2016), Những vấn đề chung về Phát triển chương trình đào tạo giáo viên (Tài liệu tập huấn cán bộ, giảng viên các cơ sở đào tạo giáo viên phổ thông về phát triển chương trình đào tạo), Hà Nội.
ThS. Trần Thị Thanh Huyền - GV Khoa Sư phạm