Tóm tắt: Trong giáo dục nói chung và việc học nói riêng thì tự học có một vai trò hết sức quan trọng, đối với sinh viên cao đẳng, đại học, việc tự học càng có ý nghĩa sâu sắc. Tự học giúp người học hiểu sâu, mở rộng, củng cố và ghi nhớ bài học một cách vững chắc nhờ vào khả năng tự phân tích, tổng hợp tài liệu, từ đó có khả năng vận dụng các tri thức đã học vào việc giải quyết những nhiệm vụ học tập mới. Đồng thời, tự học giúp người học hình thành được tính tích cực, độc lập tự giác trong học tập cũng như nề nếp làm việc khoa học. Từ đó quyết định sự phát triển các phẩm chất nhân cách và quyết định chất lượng học tập của SV.
Từ khóa: tự học, năng lực, phương pháp, sinh viên
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong các phương pháp đổi mới dạy học hiện nay, dạy học theo hướng phát triển năng lực là một xu thế nổi bật. Khác với các phương pháp dạy học truyền thống chỉ yêu cầu người học trả lời câu hỏi: Biết cái gì?, dạy học theo hướng phát triển năng lực luôn đặt ra câu hỏi: Biết làm gì từ những điều đã biết?, chú trọng rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Bởi vậy, SV cần phải thay đổi cách học, cách tiếp nhận vấn đề một cách tích cực, chủ động, sáng tạo thông qua hình thức tự học. Tự học sẽ giúp người học có thể chủ động học tập suốt đời. Học tập để khẳng định năng lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học còn giúp người học thích ứng với mọi thay đổi của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự học, các em sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc. Thích ứng và bắt nhịp nhanh với những tình huống mới mà cuộc sống hiện đại và những thách thức to lớn từ môi trường nghề nghiệp tạo nên.
Việc tự học ở một số trường cao đẳng, đại học mới chỉ mang tính hình thức, chưa được quan tâm đúng mức và thực hiện đúng cách. Qua thực tế giảng dạy có thể thấy, một số giáo viên có giao một phần nội dung chương trình cho sinh viên tự học (thường là những phần không trọng tâm hay những phần tương đối khó, ít gặp trong nội dung thi). Tuy nhiên, giáo viên chưa có thời gian phù hợp để kiểm tra và đánh giá việc thực hiện phần tự học trong buổi học sau. Vì thế, sinh viên tự coi những phần giáo viên giao cho tự học là những phần không quan trọng, không thi, nên không học. Thành thử, việc tự học nếu có, mới chỉ mang tính hình thức, chưa được quan tâm đúng mức và thực hiện đúng biện pháp thích hợp.
Tự học một cách chủ động, có định hướng mục tiêu và có hướng dẫn giúp ta tiếp thu sâu sắc những điều cần phải biết, kể cả kiến thức không đề cập trong chương trình đào tạo chính khóa. Kết quả giáo dục sẽ cao hơn nếu quá trình đào tạo được biến thành quá trình tự đào tạo, quá trình giáo dục được biến thành quá trình tự giáo dục.
Trong hoạt động dạy - học, tổ chức hoạt động dạy - học là một công việc quan trọng, không thể thiếu và ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng và hiệu quả của hoạt động dạy - học. Vì vậy có thể nói rằng tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên là quá trình tiến hành các biện pháp nhằm tích cực hoá hoạt động học tập của sinh viên trong quá trình lĩnh hội tri thức dưới sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên hay không có sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên.
Qua tìm hiểu từ nhiều nguồn thông tin khác nhau, chúng tôi thấy SV chưa nhận thức đúng đắn về sự cần thiết của hoạt động tự học. Hầu hết các em chưa tự giác, tích cực, chủ động chiếm lĩnh tri thức cho mình mà còn thụ động, phụ thuộc vào kiến thức do GV truyền thụ. Một số ít SV có ý thức tự học thì kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin phục vụ nhiệm vụ học tập còn hạn chế. Vì vậy cần rèn kỹ năng tự học cho SV theo hướng phát triển năng lực là nhiệm vụ cần thiết.
II. NỘI DUNG
1. Năng lực tự học với giáo trình
Giáo trình là tài liệu học tập cơ bản của sinh viên để học tập. Nội dung giáo trình cung cấp cho sinh viên hệ thống tri thức, rèn luyện kĩ năng tư duy lôgic, giáo dục thế giới quan khoa học và tư tưởng, tình cảm đúng đắn cho các em. Để phát triển năng lực tự học với giáo trình, giáo viên cần hướng dẫn sinh viên rèn luyện hệ thống các kỹ năng như kỹ năng đọc và phát hiện kiến thức trọng tâm của bài học; kỹ năng lập dàn ý bài viết trong giáo trình; kỹ năng khai thác nội dung giáo trình qua kênh hình; kỹ năng sử dụng kiến thức trong giáo trình để làm phong phú kiến thức bài giảng cho môn phương pháp dạy học; kỹ năng trả lời và viết bài cho các câu hỏi sau mỗi bài học; kỹ năng kết hợp nghe giảng và ghi chép…
2. Năng lực tự làm việc với tài liệu tham khảo
Trong quá trình dạy học ở trường chuyên nghiệp, bên cạnh giáo trình thì tài liệu tham khảo là nguồn kiến thức quan trọng, là căn cứ khoa học về tính chính xác, tính cụ thể và phong phú của sự kiện, giúp sinh viên nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng và rèn luyện cho các em một số thói quen tốt như đọc sách, tự giác học tập, say mê tìm tòi ….
Để phát huy năng lực tự học với tài liệu tham khảo, giáo viên hướng dẫn học sinh cách đọc và nghiên cứu tài liệu tham khảo như đọc và tìm kiến thức bổ sung cho kiến thức trong giáo trình; ghi chép lại những nội dung quan trọng và mới; tự trình bày nội dung tài liệu tham khảo bằng một đoạn tóm tắt; nêu lên suy nghĩ của bản thân về tài liệu tham khảo đó…
3. Năng lực tự làm việc với đồ dùng trực quan
Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học vừa là nguyên tắc, vừa là phương pháp dạy học quan trọng. Đồ dùng trực quan không chỉ là nguồn kiến thức quan trọng nhằm cụ thể hóa, bổ sung kiến thức cho kênh chữ mà còn tạo hứng thú cho học sinh, tạo nên sự sinh động cho giờ học. Đối với sinh viên thì đồ dùng trực quan không chỉ cụ thể hóa kiến thức mà đó còn là phương tiện dạy học quan trọng để nâng cao chất lượng bài học, tạo sự hứng thú cho sinh viên. Do đó, tự làm việc với đồ dùng trực quan sẽ cho các em thêm những kỹ năng dạy học sau này.
Trên thực tế, nếu bài học chỉ khai thác những kiến thức đơn thuần thì tiết học trở nên nặng nề kém hấp dẫn, không tạo được hiệu quả bài học. Do đó, trong các bài học cần hình thành cho sinh viên các kỹ năng sử dụng và khai thác các loại đồ dùng trực quan khác nhau.
Có nhiều đồ dung trực quan khác nhau, trong học tập các môn cụ thể chúng ta cần hình thành và phát triển cho học sinh năng lực tự học với đồ dùng trực quan như: khai thác bản đồ tư duy, lược đồ lịch sử theo đúng phương pháp bộ môn; khai thác nội dung cơ bản qua tranh ảnh, phim tư liệu; kỹ năng hệ thống hóa, khái quát hóa kiến thức qua sơ đồ, biểu đồ, đồ thị; kỹ năng sử dụng phương tiện trực quan hiện đại như máy tính, máy chiếu, mạng internet….Những kỹ năng này cần được rèn luyện thường xuyên trong các loại bài học.
5. Năng lực nghe giảng – tự ghi chép
Năng lực nghe giảng và tự ghi chép là hai kỹ năng cần có của sinh viên ở các trường chuyên nghiệp. Việc kết hợp hai kỹ năng này không chỉ giúp sinh viên theo dõi bài giảng của giáo viên để chủ động chiếm lĩnh kiến thức một cách tự giác, chủ động và bền vững mà còn giáo dục học sinh ý thức tự giác, tư duy nhanh, nắm bắt vấn đề nhạy bén và tập trung.
Trong quá trình học ở trên lớp, sinh viên phải đồng thời kết hợp nhiều thao tác khác nhau như theo dõi giáo trình, nghe giảng, ghi chép, suy nghĩ và trả lời câu hỏi… Do đó, sinh viên cần biết lựa chọn kiến thức để ghi chép theo ý hiểu của mình sao cho ngắn gọn, đủ ý, chính xác. Muốn vậy, sinh viên cần tập trung trong quá trình nghe giảng, biết phân loại kiến thức dễ, khó, trọng tâm…và biết đặt câu hỏi cho mỗi phần kiến thức, biết làm rõ những kiến thức khó, chưa hiểu. Thực hiện những thao tác ấy nhiều lần sẽ rèn luyện cho học sinh năng lực nghe giảng và ghi chép hiệu quả.
6. Năng lực nêu và giải quyết vấn đề
Nêu vấn đề tức là cách đặt câu hỏi và đòi hỏi có cách giải quyết. Câu hỏi bao giờ cũng mang yếu tố mở, yếu tố nhận biết, khám phá hoặc khám phá lại dưới một dạng thông tin khác bằng cách cho sinh viên tìm ra các mối quan hệ, các quy tắc, các con đường tạo ra một câu hỏi hoặc một cách giải quyết mới.
Tự đặt câu hỏi là quá trình tiếp thu kiến thức, sinh viên nảy sinh những thắc mắc, những câu hỏi mong muốn tìm hiểu sâu hơn vấn đề đang học. Tự nêu và giải quyết vấn đề cũng là công cụ học tập hiệu quả. Đó cũng chính là cơ sở của năng lực sư phạm sau này của các em.
Năng lực trả lời câu hỏi bao gồm các hoạt động: độc lập suy nghĩ, nhận thức được yêu cầu của câu hỏi, lựa chọn kiến thức đã có trong giáo trình, biết huy động những kiến thức đã có theo yêu cầu của vấn đề đã nêu. Năng lực tự nêu vấn đề bao gồm: phát hiện những vấn đề chưa hiểu khi đọc giáo trình hay khi nghe giảng, hay khi đọc các tài liệu tham khảo, nắm bắt vấn đề và nêu thành câu hỏi; Tự suy nghĩ, trao đổi với bạn bè, hỏi thầy cô để tìm cách lý giải.
7. Năng lực trình bày vấn đề
Năng lực trình bày một vấn đề rèn luyện cho sinh viên trình bày nội dung một vấn đề bằng ngôn ngữ nói hoặc viết theo yêu cầu của giáo viên. Đây là một trong những năng lực quan trọng trong học tập của sinh viên chuyên ngành. Nó không chỉ giúp sinh viên nắm vững, hiểu sâu kiến thức mà còn phát triển ngôn ngữ, rèn luyện khả năng diễn đạt và tư duy logic. Đồng thời đây cũng là nền tảng cho việc phát triển kỹ năng nghề sau này của các em.
Năng lực trình bày một vấn đề được thể hiện qua các hoạt động: sinh viên suy nghĩ độc lập để trình bày vấn đề theo đúng yêu cầu, lập dàn ý sơ lược, lựa chọn kiến thức cơ bản cần trình bày. Đồng thời dự kiến trước một số tình huống có thể xảy ra trong quá trình trình bày vấn đề và cách giải quyết những tình huống đó.
Ngoài những năng lực đó chúng ta còn có thể rèn luyện cho sinh viên một số năng lực khác như năng lực tự ôn tập, củng cố kiến thức; năng lực tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập….. Hình thành và phát triển được những năng lực đó cho sinh viên, chúng ta có thể tạo ra những thầy cô giáo đủ năng lực, phẩm chất và trình độ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền giáo dục nước nhà.
III. KẾT LUẬN
Hình thành và phát triển, rèn luyện năng lực tự học cho sinh viên là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong đào tạo nước giáo viên trong giai đoạn hiện nay. Để rèn luyện những năng lực đó cho sinh viên, mỗi giáo viên phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận dạy học bộ môn, năng lực giảng dạy, trở thành tấm gương sáng về tự học đối với sinh viên. Đồng thời biết truyền cảm hứng, niềm đam mê và yêu thích môn học đến với các em, và biến niềm đam mê đó thành hành động trong việc phát triển các năng lực học tập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hữu Châu, Những vấn đề cơ bản về chưong trình và quá trình dạy học, NXB Giáo dục, 2005.
2. Nguyễn Kỳ, Tự học. Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/1998
3. Trần Bá Hoành, Vị trí của tự học tự đào tạo trong quá trình dạy học giáo dục và đào tạo, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, tháng 7/1998.
4. Thái Duy Tuyên, Dạy tự học cho sinh viên trong các nhà trường cao đẳng đại học chuyên nghiệp, Chuyên đề Phương pháp dạy học cho học viên Cao học, ĐH Huế, 2003.
Thu Hương - Khoa Sư phạm