SỰ DUNG HỢP TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU TRONG CHÙA VIỆT Ở KHÁNH HÒA
Từ xưa đến nay, chùa Việt ở Khánh Hòa không chỉ được tạo dựng phổ biến và đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh, mà nó còn hòa dung hợp với tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống như tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng thờ tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ danh nhân, thờ anh hùng liệt sĩ, Đạo giáo, Nho giáo. Đặc biệt là sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu trong chùa Việt ở Khánh Hòa phản ánh truyền thống, thể hiện sắc thái vùng miền và góp phần tạo nên tính đa dạng văn hóa Phật giáo Việt Nam. Bằng nghiên cứu thực địa và thông qua quan sát tham dự, bài viết diễn giải về sự dung hợp tín ngưỡng này trong chùa Việt ở Khánh Hòa.
1. Sự dung hợp tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu
Như chúng ta biết, tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu là kết quả của sự tiếp biến văn hóa Việt - Chăm. Đó là sự dung hợp và Việt hóa từ Nữ thần Mẹ xứ sở Pô Inư Nưgar của người Chăm thành Thiên Y A Na Thánh Mẫu của người Việt. Theo đó, tín ngưỡng này được người Việt thờ phụng phổ biến ở Trung bộ nói chung và Khánh Hòa nói riêng. Và ở Khánh Hòa, tín ngưỡng này được người Việt thờ phụng phổ biến từ nông thôn đến thành thị. Theo thời gian, tín ngưỡng thờ Thiên Y Thánh Mẫu đã dung hợp với nhiều hình thức tín ngưỡng dân gian khác của người Việt ở Khánh Hòa như tín ngưỡng thờ ông Nam Hải, tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, tín ngưỡng thờ tổ tiên... Song điển hình là sự dung hợp và được thờ phụng phổ biến trong chùa Việt ở Khánh Hòa, đó là tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu. Theo quan niệm của dân gian, thì Thiên Y A Na Thánh Mẫu là Mẫu bản thổ và có vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh người Việt ở Khánh Hòa. Chính vì thế mà nhiều chùa Việt ở Khánh Hòa từ lâu đã dung hợp với tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu. Đó là chùa chùa Suối Đổ và chùa Hàng Thuận (Suối Hiệp, Diên Khánh), chùa Oai Linh (Vĩnh Thọ, Nha Trang), chùa Sắc Tứ Chí Linh Sơn, chùa Đá Lố và chùa Thanh Vân (Vĩnh Phương, Nha Trang) chùa Nghĩa Quang (Phương Sài, Nha Trang), chùa Linh Phong (Phương Sơn, Nha Trang), chùa Đào Viên (Ngọc Hiệp, Nha Trang), chùa Chí Lý (Vĩnh Hải, Nha Trang), chùa Bửu Long (Ninh Quang, Ninh Hòa), chùa Thiên Phước (Ninh Đông, Ninh Hòa)...
Hình 1: Bàn thờ Mẫu trong chùa Nghĩa Quang, Phương Sài, Nha Trang, Khánh Hòa
Bên cạnh đó, sự dung hợp tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu trong chùa Việt Khánh Hòa thể hiện mô típ truyền thống Phật giáo Việt Nam, đó là: “Tiền Phật, hậu Mẫu” hoặc “Tiền Thánh, hậu Phật”. Theo Trần Lâm Biền: “Việc thờ Mẫu là một đảm bảo cho sự tồn tại của ngôi chùa, hay sự dung hội với tín ngưỡng dân dã này là đường đi tất yếu của Phật giáo, nhờ đó mà đạo Phật có bệ đỡ quần chúng” [Trần Lâm Biền, 2001: 637]. Nói cách khác, đây là sự hòa hợp giữa tín ngưỡng dân gian của người Việt với Phật giáo để cùng tồn tại, phát triển và thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng cư dân nông nghiệp. Cơ sở cho sự dung hợp này là niềm tin, và do nhu cầu của người Việt vừa thờ Phật vừa thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu của họ. Tuy nhiên, theo không gian, hoàn cảnh lịch sử - xã hội, đặc trưng văn hóa vùng miền mà sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu trong chùa Việt có những nét khác biệt. Nếu như chùa Việt vùng văn hóa Bắc bộ phổ biến là sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ như chùa Phật Tích (Tiên Du, Bắc Ninh), chùa Trấn Quốc (Tây Hồ, Hà Nội), chùa Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương)... Ngược lại, trong quá Nam tiến, chùa Việt ở Khánh Hòa thường dung hợp Thiên Y A Na Thánh Mẫu và nhiều vị Nữ thần, Mẫu thần khác.
Tuy nhiên, sự dung hợp tín ngưỡng Thiên Y A Na Thánh Mẫu trong những ngôi chùa Việt ở Khánh Hòa rất đa dạng và linh hoạt. Tùy theo không gian của ngôi chùa mà có cung hoặc ban thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu trong chính điện. Ví dụ, cung thờ Thiên Y Thánh Mẫu trong chùa Sắc Tứ Chí Linh Sơn còn gọi là chùa Suối Ngổ (Vĩnh Phương, Nha Trang). Ngôi chùa được tạo dựng từ thời Nguyễn trên đỉnh núi Hòn Én gồm tam quan, khuôn viên và chính điện. Khuôn viên chùa gồm am thờ Chiến sỹ, tượng Phật Quan Thế Âm Bồ Tát, tượng Phật Di Lặc, am ông Hổ, miếu ông Địa Tạng, am Ngũ hành thần nữ và am Cô hồn. Chính điện là một tòa nhà theo bình đồ chữ nhất, được chia thành hai khu vực điện thờ Phật và điện thờ Mẫu. Thứ nhất, điện thờ Phật nằm bên tay phải từ tam quan vào chùa, chính giữa là tượng Thích Ca Mâu Ni, bên trái là tượng Quan Thế Âm Bồ Tát và bên phải là tượng Bồ Đề Đạt Ma. Thứ hai, điện thờ Mẫu ở bên tay trái từ tam quan vào chùa, trên cùng là tượng Phật Mẫu Diêu Trì, bên dưới là tượng Thiên Y A Na Thánh Mẫu. Bên trái tượng Thiên Y A Na Thánh Mẫu là ban thờ Quan Công. Bên phải tượng Thiên Y A Na Thánh Mẫu là ban thờ nhị thập bát tiên, bài vị của vị sư tổ, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh và chân dung Đại tướng Võ Nguyễn Giáp.
Một ví dụ khác là cách bài trí trong chùa Suối Đổ và chùa Nghĩa Quang, thì Thiên Y A Na được thờ trong chánh điện. Theo đó, chính giữa là cung thờ Phật, bên phải từ tam quan vào là cung thờ Quan Thánh Đế và bên trái là cung thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu. Tuy nhiên trong chùa Nghĩa Quang (Phương Sài, Nha Trang), thì cung thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu lại bài trí như sau: hàng trên cùng là tượng Thiên Y A Na Thánh Mẫu, hàng thứ hai là Tam tòa Thánh Mẫu, hàng thứ ba là Ngũ hành thần nữ và bên dưới là hạ ban thờ Ngũ Hổ, Thanh Bạch Xà. Ngoài ra, nhiều chùa tạo chỉ tạo dựng am hoặc cung thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu trong khuôn viên như chùa Phước Huệ (Vĩnh Hải, Nha Trang), chùa Đá Lố (Vĩnh Phương, Nha Trang), chùa Bửu Long (Diên Thọ, Diên Khánh)... Không những thế, vào những ngày vía của Thiên Y A Na Thánh Mẫu, người Việt không chỉ đến dâng hương hoa, tụng niệm kinh, mà họ còn thực hành nghi lễ hầu đồng theo Tam - Tứ phủ Bắc hoặc Tiên Thiên Thánh giáo/Tứ phủ Huế. Tiêu biểu như chùa Suối Đổ (Suối Hiệp, Diên Khánh), chùa Bửu Long (Diên Thọ, Diên Khánh), chùa Đá Lố (Vĩnh Phương, Nha Trang)... Như vậy, chùa Việt ở Khánh Hòa không chỉ dung hợp và đa dạng về hình thức thờ tự, mà còn tích hợp cả thực văn hóa tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na. Đồng thời thực hành văn hóa Phật giáo đã ảnh hưởng vào tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu của người Việt ở Khánh Hòa như lễ cúng chay, tụng kinh Phật, lễ cầu quốc thái dân an, lễ thả hoa đăng...
2. Sự dung hợp tục thờ Ngũ hành thần nữ
Việt Nam là một quốc gia có truyền thống canh tác nông nghiệp lúa nước, cho nên hình thành tục thờ các nhiên thần mang tính nữ được thể hiện đậm nét trong tâm thức cộng đồng các tộc người. Điều này được phản ánh, lưu truyền thông qua những huyền thoại dân gian của các tộc người ở nước ta. Trước hết, để tạo lập vũ trụ là công của nữ thần Mặt Trời và nữ thần Mặt Trăng. Hai nữ thần này đã soi sáng và sưởi ấm cho mặt đất từ thuở chỉ có bùn, nước và bóng tối. Theo đó, huyền thoại bà Nữ Oa cùng ông Tứ Tượng đội đá vá trời, xây núi, khơi sông, mà một trong những cuộc thi tài bà Nữ Oa đã chứng tỏ được sức mạnh của mình nên đã giành chiến thắng. Bên cạnh đó là những nữ thần gắn với những hiện tượng tự nhiên như Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Những yếu tố cội nguồn của vũ trụ và nguồn sống được dân gian người Việt cho là mang nữ tính. Đồng thời quá trình xu hướng nữ hóa các vị thần, đặc biệt là những nhiên thần như trường hợp năm bà Ngũ hành còn gọi là mẹ Ngũ hành. Đó là bà Thủy, bà Hỏa, bà Kim, bà Mộc và bà Thổ được gọi chung là bà Ngũ hành. Quan niệm của người phương Đông thì Ngũ hành tức là năm loại vật chất gồm Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ, Kim. Mọi sự vật trên thế giới đều được sinh thành từ sự vận động và chuyển hóa từ năm loại vật chất cơ bản này. Mặt khác, dựa trên mối quan hệ tương sinh tương khắc trong Ngũ hành để lý giải mối quan hệ giữa các sự vật. Tục thờ Nữ thần, Mẫu thần là một hiện tượng khá phố biến trong đời sống tâm linh của người Việt và cộng đồng các tộc người khác ở nước ta, cũng như trên thế giới. Tục thờ Nữ thần của người Việt mang tính bản địa và đã có từ xa xưa. Tác giả Đặng Văn Lung viết: “Với tính chất là một tín ngưỡng bản địa, tục thờ Nữ thần xuất hiện khá sớm, cách đây độ 2.500 năm. Hoa văn trống đồng Đông Sơn ghi nhận ngày hội thờ nữ thần mặt Trời tràn trề sôi nổi. Đến thế kỷ II, Phật giáo vào Luy Lâu, Nho giáo cũng vào đó, hai tôn giáo quốc tế chèn ép tín ngưỡng bản địa. Đặc biệt, Phật giáo đã đưa Man Nương, một bà mẹ Nước lên làm Phật Mẫu” [Đặng Văn Lung, 1991: 28].
Nhưng theo không gian, điều kiện tự nhiên, chủ thể, phương thức sản xuất, bối cảnh lịch sử - xã hội, nhu cầu tín ngưỡng mà mỗi vùng miền ở nước ta có những nét tương đồng và khác biệt trong tục thờ Nữ thần. Theo đó, Khánh Hòa là vùng đất do chúa Nguyễn mở cõi vào năm 1653, có điều kiện tự nhiên đa dạng như núi rừng, đồng bằng, biển đảo và cộng cư đa tộc người, cho nên đã hình thành những phương thức sản xuất tương ứng. Đó là sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, khai thác rừng và thương mại dịch vụ. Vì vậy mà tục thờ Nữ thần của người Việt ở đây không chỉ phổ biến, đa dạng mà nó còn tạo nên sắc thái riêng, đó là Ngũ hành thần nữ. Dân gian người Việt ở Khánh Hòa thường gọi là Mẹ Ngũ hành hoặc Ngũ vị Thánh Bà... Ngũ hành thần nữ là tên năm vị Nữ thần, biểu tượng cho cho năm yếu tố trong vũ trụ, đó là Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ, Kim. Đó là bà Thủy sắc phục màu đen, bà Mộc sắc phục màu xanh, bà Hỏa sắc phục màu đỏ, bà Kim sắc phục màu trắng và bà Thổ sắc phục màu vàng. Bà Thổ đặt ở vị trí trung tâm. Đặc biệt là Ngũ hành thần nữ đã được các vua triều Nguyễn ban nhiều tặng sắc phong chung hoặc sắc phong riêng cho từng vị Nữ thần. Theo Đỗ Văn Khoái: “Sắc phong chung cho Ngũ hành thần nữ sớm nhất vào năm Duy Tân thứ 5 (1911); Ngũ hành thần nữ, Ngũ hành nương nương, Ngũ hành tiên nương. Sắc phong riêng cho từng vị trong năm vị thì Chủ thiết/Chúa sắt thần nữ có sắc phong sớm nhất vào năm Minh Mệnh thứ 3 (1822)” [Đỗ Văn Khoái, 2013: 11].
Mặt khác, việc ban tặng sắc phong của triều đình nhà Nguyễn cho Ngũ hành thần nữ đã chính thức công nhận, tôn kính và cho phép người dân được thờ tự. Kết quả khảo sát cho chúng tôi biết, nhiều ngôi chùa Việt ở Khánh Hòa thường có miếu hoặc am thờ Ngũ hành thần nữ như chùa Suối Đổ (Suối Hiệp, Nha Trang), chùa Đào Viên (Ngọc Hiệp, Nha Trang), chùa Sắc Tứ Chí Linh (Vĩnh Phương, Nha Trang), chùa Oai Linh (Vĩnh Thọ, Nha Trang)... Sự dung hợp tục thờ Ngũ hành thần nữ trong chùa Việt Khánh Hòa xuất phát từ nhu cầu và niềm tin dân gian của người Việt. Theo họ, đây là những Nữ thần sáng tạo ra thế giới vạn vật và mang lại cuộc sống cho cộng đồng. Vì thế mà nhiều Phật tử dâng cúng và xin phép các nhà sư được thờ phụng Ngù hành thần nữ trong chùa. Do đó, các am hoặc miếu thờ Ngũ hành thần nữ trong chùa thường có linh tượng và bài vị của 5 vị Nữ thần. Hơn thế nữa, vào dịp vía Ngũ hành thần nữ mùng 5 tháng 5 âm lịch, người Việt thường dâng hương, hoa và thực hành lên đồng theo Tiên Thiên Thánh giáo.
3. Sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ
Sự dung hợp các vị trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ trong chùa Việt Khánh Hòa. Như chúng ta biết, trên nền tảng của tín ngưỡng thờ Nữ - Mẫu thần, tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, một hình thức thờ cúng người mẹ hóa thân ở các miền trời, sông nước, rừng núi được hình thành và phát triển sâu rộng trong cộng đồng người Việt vùng châu thổ Bắc bộ. Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ có mối quan hệ mật thiết với tục thờ Nữ thần và Mẫu thần của người Việt. Thờ Mẫu Tam phủ là ba người Mẹ mang biểu tượng siêu nhiên của ba miền vũ trụ. Đây là các bà mẹ vũ trụ cai quản những lĩnh vực quan trọng nhất của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đó là Mẫu Thiên phủ là bà mẹ cai quản miền Trời. Mẫu Địa phủ là bà mẹ cai quản miền Đất. Mẫu Thoải phủ là bà mẹ cai quản miền Nước. Mẫu Tam phủ còn có thể gọi là Tam tòa Thánh Mẫu trong tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam. Tác giả Trần Lâm Biền viết: “Ban thờ Mẫu có ba tượng gọi là Tam tòa Thánh Mẫu. Gốc xưa gồm Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thoải, Mẫu Địa. Bà Thượng Ngàn gắn với người chết nên để riêng. Khi đạo Mẫu phát triển vào thành thị do Mẫu Thượng Ngàn ít nhiều gắn với tài lộc, nên Tam tòa Thánh Mẫu gồm: Thượng Thiên, Thượng Ngàn, Mẫu Thoải” [Trần Lâm Biền, 2000: 650]. Tác giả Chu Quang Trứ viết: “Tam tòa Thánh Mẫu là ba lực lượng siêu linh gắn với ba khu vực của thế giới là Thiên phủ, Nhạc phủ và Thủy phủ. Tứ phủ gồm: Thiên - Nhạc - Thủy và Địa” [Chu Quang Trứ, 2013: 11]. Và tác giả Trần Quốc Vượng viết: “Ở đồng bằng Bắc bộ, việc thờ thần Mẫu, dưới ảnh hưởng đạo giáo dân gian, được hệ thống hóa thành “Tứ phủ công đồng” với ba Mẫu Thiên Phủ, Địa phủ, Thủy phủ, hay có khi là bốn Mẫu, thêm Mẫu Thượng Ngàn, đại diện Rừng Xanh. Mẫu Liễu Hạnh thường được thờ riêng, hay được đồng nhất với Mẫu Thiên phủ” [Trần Quốc Vượng, 2014: 238]. Và đến thế kỷ XVI, tín ngưỡng này trở thành một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội và tâm thức người dân Việt. Thánh Mẫu Liễu Hạnh được thờ cúng cùng với các vị Thánh Mẫu cai quản miền trời, rừng, nước cùng những nhân vật lịch sử hoặc huyền thoại có công với nước, với dân. Theo thư tịch và huyền thoại, Mẫu Liễu là tiên nữ giáng trần, làm người, rồi qui y Phật giáo, được tôn vinh là “Mẫu nghi thiên hạ” và là một trong “Tứ Bất tử” của người Việt. Tín ngưỡng này còn hỗn dung với Đạo giáo, Phật giáo và các tục thờ dân gian khác của người Việt. Ngoài ra, trong thần điện Tam phủ, Tứ phủ còn tích hợp nhiều vị thần của các tộc người khác như người Mường, Tày, Nùng, Dao, Chăm... Điều này không chỉ tạo nên tính đa dạng văn hóa trong tín ngưỡng này, mà nó còn phản ánh mối quan hệ và sự gắn kết đa tộc người ở Việt Nam. Có thể nói tín ngưỡng này như một “bảo tàng sống” góp phần lưu giữ, trưng bày, giới thiệu về giá trị lịch sử - văn hóa Việt Nam. Nói cách khác, tín ngưỡng này thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, thỏa mãn nhu cầu của người Việt về tài lộc và sức khỏe.
Theo thời gian, tín ngưỡng này đã xuất hiện ở Khánh Hòa do người Việt ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ mang theo những năm đầu của thế kỷ XX trong quá trình Nam tiến. Đây chính là hiện tượng khuếch tán văn hóa theo bước di cư của người Việt đến vùng đất mới. Tuy nhiên, tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ của người Việt ở Khánh Hòa gồm hai dòng, đó là Tam phủ, Tứ phủ Bắc và Tứ phủ Huế/Tiên Thiên Thánh giáo. Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ của người Việt ở Khánh Hòa chủ yếu là những đền, điện tư trong những gia đình người người Việt gốc Huế, Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ của người Việt ở Khánh Hòa chủ yếu là những đền, điện tư trong những gia đình người người Việt gốc Huế, Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Từ kết quả nghiên cứu thực địa cho biết, Tứ phủ Huế còn gọi là Tiên Thiên Thánh giáo xuất hiện ở Khánh Hòa từ những năm 30 của thế kỷ XX. Đó là đền Diệu Linh (Phước Tiến, Nha Trang) điện Định Phước (Vạn Thắng, Nha Trang), điện Cứu Thế (Phương Sài, Nha Trang), điện Nam Minh (Vĩnh Thọ, Nha Trang), điện Cô Chín Thượng Ngàn (Vĩnh Phước, Nha Trang), Thủy Long Bích điện (Ninh Ích, Ninh Hòa)...
Mặt khác, tư liệu điền dã cho chúng tôi biết, tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ Bắc của người Việt ở Khánh Hòa xuất hiện từ sau năm 1954. Họ là những người Việt di cư từ các tỉnh Bắc bộ và Bắc Trung bộ vào Khánh Hòa lập nghiệp. Do đó, họ đã mang theo tín ngưỡng này vào vùng đất Khánh Hòa như Hà Tây (cũ), Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hải Dương, Ninh Bình, Thanh Hòa, Nghệ An… Song những thần điện Mẫu Tam phủ, Tứ phủ Bắc cũng chủ yếu là những điện thờ tư gia. Đó là đền Sòng Sơn (Phước Tiến, Nha Trang), đền Thánh Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên (Cam Phúc Nam, Cam Ranh), Bảo Hà Linh từ (Tân Phú, Cam Ranh), Tiên Hương Vọng từ (Phước Tiến, Nha Trang), điện Cửu Trùng (Ninh Hiệp, Ninh Hòa), Bắc Lệ Linh từ (Phước Long, Nha Trang), điện Trần Lộc Thiên Trường (Phước Long, Nha Trang)... Bên cạnh đó, tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ của người Việt cũng được dung hợp trong chùa Việt ở Khánh Hòa. Đó là ban thờ Mẫu trong chùa Nghĩa Quang (Phương Sài, Nha Trang), Pháp Tánh Linh từ chùa Pháp Tánh (Vĩnh Thọ, Nha Trang), điện Ngọc Diêu cung trong chùa Bửu Long (Diên Thọ, Diên Khánh), chùa Phước Huệ (Vĩnh Hải, Nha Trang). Do vậy, những cung thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ trong ngôi chùa Việt còn là không gian thiêng cho các ông đồng, bà đồng thực hành nghi lễ lên đồng Bắc hoặc hầu Huế. Có thể nói rằng, việc tạo lập những thần điện Mẫu Tam phủ, Tứ phủ của người Việt ở Khánh Hòa từ xưa đến nay đã góp phần vào quá trình gìn giữ và trao truyền các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam. Bởi vì, trong tâm thức của người Việt, dù họ đi đâu luôn mang theo và mong muốn bảo lưu giá trị văn hóa truyền thống của họ trên những vùng đất mới.
4. Sự dung hợp với các vị thần dân gian khác
Ngoài sự dung hợp tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na, tục thờ Ngũ hành thần nữ, tín ngưỡng thờ Mẫu Tam - Tứ phủ trong chùa Việt ở Khánh Hòa, thì còn có sự dung hợp các vị thần của tín ngưỡng, tôn giáo khác tiêu biểu như Cửu Thiên Huyền Nữ, diêu Trì Kim Mẫu.
Một là, sự dung họp Cửu Thiên Huyền Nữ trong chùa Việt ở Khánh Hòa. Cửu Thiên Huyền Nữ còn gọi là Cửu Thiên Huyền Nữ nương nương hoặc gọi là Huyền Nữ. Bà là nữ thần trong thần thoại cổ đại Trung Quốc, sau được Đạo giáo tín cử. Tác giả Nguyễn Tôn Nhan cho biết: “Cửu Thiên Huyền Nữ cũng được gọi là Cửu Thiên, Huyền Nữ, Cửu Thiên nương nương, là một Nữ thần trong thần thoại Trung Quốc cổ đại, sau này được Đạo giáo tôn thờ, trở thành một vị nữ thần nổi tiếng rất có ảnh hưởng trong dân gian” [Nguyễn Tôn Nhan, 200: 407]. Truyền thuyết dân gian Trung Quốc kể rằng: “Một hôm Cửu Thiên Huyền Nữ cưỡi chim phượng đỏ, mặc bộ y phục chín màu, đáp xuống hạ giới, trao cho Hoàng Đế lá bùa dùng binh lục Giáp Lục Nhâm và sách sai khiến quỉ thần, đồng thời chế ra 80 cái trống mà đánh bại Si Long” [Doãn Hiệp Lý (Cb), 1994: 2211].
Trong dân gian người Việt lưu truyền về câu chuyện Cửu Thiên Huyền Nữ dạy Lỗ Ban làm nhà. Truyện kể rằng: “Thuở hồng hoang, con người có hỏi Thần Nông cách làm nhà để ở. Thần Nông đứng thẳng dang hai tay ngang vai, thế là con người làm nhà bằng mái như giàn bầu, giàn bí. Kiểu nhà mái bằng này lợp bằng cây là nên gặp mưa dột tứ tung không ở được. Bà Cửu Thiên thấy vậy bèn xuống trần dạy cho cách làm nhà: Bà đứng thẳng hai tay chống nạnh vào hông. Lỗ Ban theo đó dựng cột bắt kèo làm nên kiểu nhà hai mái dốc. Thế là con người có nhà để trú nắng tránh mưa. Thần Nông thấy sự việc như vậy hận lắm, thề rằng “Ta thề không chui qua dưới nách đàn bà mà ở”. Bởi vậy, người đời hoặc đắp đàn cao không lợp mái, hoặc xây miếu thì phải làm mái bằng để thờ Thần Nông. Tục ấy còn duy trì đến nay. Căn cứ vào truyền thuyết này, Cửu Thiên Huyền Nữ được coi là tổ của ngành mộc, ngành xây dựng nói chung và các ngành nghề thủ công: dệt may, đục chạm, điêu khắc...”[Huỳnh Ngọc Trảng và Nguyễn Đại Phúc, 2013: 78]. Theo đó, chùa Việt Khánh Hòa thường phối thờ Cửu Thiên Huyền Nữ trong cung thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu như chùa Suối Đổ (Suối Hiệp, Diên Khánh), chùa Kim Long và chùa Đào Viên (Ngọc Hiệp, Nha Trang), chùa Bửu Long (Diên Thọ, Diên Khánh)...
Hai là, sự dung hợp với Diêu Trì Kim Mẫu. Trong dân gian, Diêu Trì Kim Mẫu được gọi theo những danh xưng khác nhau như Diêu Trì Kim Mẫu, Mẫu Nương Nương, Vương Mẫu, Tây Lão, Kim Mẫu Nguyên Quân, Kim Mẫu, Địa Mẫu, Phật Địa Mẫu Diêu Trì... Trong thần thoại Trung Hoa, thì Địa Mẫu được Đạo giáo tôn đứng đầu các vị nữ thần. Dân gian tôn bà là vị thần tượng trưng cho sự trường sinh bất tử. Từ thuở bản khai hỗn độn, Mẫu hóa sinh ra trước nhất, Mẫu là lớn nhất. Tác giả Doãn Hiệp Lý cho biết: “Tây Vương Mẫu là vợ của Phù Tang Đại Đế, sinh ra 7 người con gái, cô út tự tiện xuống hạ giới lấy một chàng trai nghèo tên là Đổng Vĩnh, bị Ngọc Hoàng và Tây Vương Mẫu bắt trở lại thiên đình. Chuyện này lưu truyền từ đời Hán và đời Tấn, sau đó ngày càng được lưu truyền rộng hơn” [Doãn Hiệp Lý (Cb), 1994: 2211]. Tư liệu của Huỳnh Ngọc Trảng và Nguyễn Đại Phúc viết: “Tây Vương Mẫu trú tại Ngọc Sơn, hình tướng như người, nhưng có tướng lạ là đuôi beo, răng cọp, tiếng kêu rất to, tóc như cỏ bồng bay phủ. Bà là thần chủ quản về các loại bệnh dịch và ngũ tàn - thứ gây nên sự tàn phế, hiểu rộng là các tai nạn… Tây Vương Mẫu là biểu tượng nguyên khí thuần âm, đối lại Đông Vương Công là thần biểu tượng nguyên khí dương, quản lý các tiên nam đắc đạo. Tây Vương Mẫu được biết đến là vị Thánh Mẫu chủ quản Diêu trì cung, bà có 5 thị nữ tên Hoa Lâm, Mỵ Lan, Thanh Nga, Dao Cơ và Ngọc Chi. Ở đây có một báu vật là loại đào tiên - gọi là bàn đào - ai ăn được nó sẽ trường sanh bất lão. Loại đào này cứ 3.000 năm mới trổ hoa kết trái một lần. Khi đào chín, Tây Vương Mẫu thường triệu tập chư tiên về thưởng thức loại quả trường thọ này, gọi là Hội Bàn đào. Tây Vương Mẫu là vị thần chủ quản việc trường thọ, tức liên quan đến việc thọ yểu của con người, nhất là nữ giới. Có lẽ đây là tín lý cơ bản của tập tục thờ Tây Vương Mẫu là thần độ mạng của phụ nữ Huế với mỹ hiệu là “Trung thiên Tây cung Vương Mẫu bổn mạng Thánh đức Tiên Bà” hay “Tây cung Vương Mẫu bổn mạng Chúa Tiên...”[Huỳnh Ngọc Trảng và Nguyễn Đại Phúc, 2013: 83].
Kết quả nghiên cứu thực địa cho chúng tôi biết, Diêu Trì Kim Mẫu trong nhiều chùa Việt Khánh Hòa như chùa Bửu Long (Diên Thọ, Diên Khánh), chùa Quán Âm Sơn còn gọi là chùa Suối Đổ (Suối Hiệp, Diên Khánh), chùa Linh Sơn/chùa Suối Ngổ (Vĩnh Phương, Nha Trang), chùa Phước Huệ (Vĩnh Hải, Nha Trang), chùa Quan Âm (Vĩnh Hải, Nha Trang)... Thông thường tượng Diêu Trì Kim Mẫu thường được tạo ở thế đứng trên quả địa cầu màu xanh với sắc phục màu đen. Theo lược sử Phật Địa Mẫu Diêu Trì, thì trước khi Mẫu hóa sinh ra có một vật thổ sản, đươc gọi là quả Địa cầu. Quả Địa cầu là báu vật để Mẫu tích trữ nhiều tài liệu phẩm thực dành cho sáu ngả luân hồi sử dụng mà không bao giờ hết được. Vào ngày 18 tháng 10 âm lịch hằng năm là ngày vía của Phật Mẫu Diêu Trì. Vào ngày này, chủ các điện thờ thường lập đàn, dâng hương, đăng, trà, hoa, quả, nước tinh khiết, tụng niệm kinh Địa Mẫu. Những năm gần đây, trong ngày vía Phật Mẫu Diêu Trì còn có nghi lễ hầu đồng, hát chầu văn theo thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ Bắc hoặc Tứ phủ Huế/Tiên Thiên Thánh giáo và múa dâng bông. Đặc biệt vào ngày vía Mẫu Diêu Trì tại chùa Suối Đổ (Suối Hiệp, Diên Khánh) được tổ chức long trọng, nhiều đoàn về dâng hương, thực hành nghi lễ hầu đồng, hát văn, múa dâng bông kính dâng lên Mẫu. Thông thường, trong một tháng âm lịch có 3 ngày Mẫu là ngày 8, ngày 18 và ngày 28 âm lịch hằng tháng, các con nhang để tử thường châm 6 cây đèn, 5 nén hương, 6 ly nước lọc, hoa, trà, quả và tụng niệm kinh Mẫu. Theo thông tin từ các tín đồ, việc thực hành nghi lễ thờ Địa Mẫu của họ là có sự chỉ dẫn của thần linh, thông qua nhiều hình thức khác nhau như báo mộng, ốm đau lâu ngày chữa trị không khỏi... Ngoài ra, chùa Việt ở Khánh Hòa còn dung hợp với những vị thần của các tín ngưỡng, tôn giáo khác như Ngọc Hoàng, Thái Thượng Lão Quân, Quan Thánh Đế, bà Nữ Oa, Tiên Dung, Chúa Tiên Huyền Nữ, Thần Tài, Thổ Địa, Ngũ Hổ... Tiêu biểu như cung thờ Mẫu trong chùa Chí Lý, chùa Phước Huệ (Vĩnh Hải, Nha Trang), chùa Linh Phong (Phương Sơn, Nha Trang).
Kết luận
Sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu trong chùa Việt ở Khánh Hòa đã có từ lâu và ngày càng trở thành phổ biến. Nó phản ánh truyền thống văn hóa Phật giáo luôn hòa hợp với tín ngưỡng dân gian của người Việt. Đồng thời thể hiện niềm tin và nhu cầu của cộng đồng. Mặt khác sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu trong chùa Việt ở Khánh Hòa đa dạng về đối tượng thờ phụng cũng như thực hành văn hóa. Đó là sự dung hợp tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu, sự dung hợp Ngũ hành thần nữ, sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ Bắc, Tứ phủ Huế và nhiều vị thần của những tín ngưỡng, tôn giáo khác. Song sự dung hợp tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu trong chùa Việt ở Khánh Hòa không chỉ phổ biến, mà nó còn góp phần tạo nên sắc thái văn hóa Phật giáo riêng. Không những thế, sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu trong chùa Việt ở Khánh Hòa còn là kết quả tiếp biến văn hóa Việt - Chăm và văn hóa Việt - Hoa.
Sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu trong chùa Việt ở Khánh Hòa góp phần tạo nên tính đa dạng về văn hóa Phật giáo nói riêng và văn hóa tôn giáo Việt Nam nói chung. Tác giả Trần Quốc Vượng nhận định: “Sắc thái đặc thù của văn hóa tôn giáo Việt là sự hỗn dung tôn giáo và từ đó hỗn dung văn hóa. Điều đó khiến nảy sinh ở tâm thức người Việt cái mà nhiều người trong và ngoài nước đều nhận thấy, là sự khoan dung tôn giáo - không có “chiến tranh tôn giáo” trong lịch sử Việt Nam vốn có lắm chiến tranh (...). Sự hỗn dung văn hóa và tôn giáo, nét đặc thù của bản sắc văn hóa Việt Nam, nét trường tồn của văn hóa Việt Nam, được cắt nghĩa về mặt địa văn hóa là do cái vị thế ở giữa Đông Nam Á, nơi gặp gỡ và giao thoa văn hóa giữa hai nền văn minh lớn nhất châu Á là Trung Hoa và Ấn Độ” [Trần Quốc Vượng, 2014: 270 - 271]. Tóm lại, sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu trong chùa Việt ở Khánh Hòa thể hiện tính truyền thống, tính biến đổi, tính linh hoạt, tính tổng hợp và sắc thái địa phương. Nói cách khác, sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu trong chùa Việt ở Khánh Hòa góp phần tạo nên tính đa dạng trong văn hóa Phật giáo Việt Nam./.
Tài liệu tham khảo
1. Trần Lâm Biền (2000), Một con đường tiếp cận lịch sử, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
2. Nguyễn Văn Bốn, Văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu ở Khánh Hòa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2010.
3. Kiều Thu Hoạch (2017), “Đối thoại với hát chầu văn và lên đồng ở Việt Nam”, Di sản văn hóa, số 1 (58).
4. Đỗ Văn Khoái (2013), “Giản giới tục thờ Ngũ hành thần nữ ở Khánh Hòa”, Văn hóa, Thể thao & Du lịch Khánh Hòa, số 6.
5. Trần Lâm - Thế Hùng (2018), “Trở lại với tục thờ Mẫu Tứ phủ của người Việt”, Di sản văn hóa, số 1 (62).
6. Đặng Văn Lung (1991), Tam tòa Thánh Mẫu, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
7. Doãn Hiệp Lý chủ biên (1994), Từ điển văn hóa cổ truyền Trung Hoa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
8. Nguyễn Tôn Nhan (2000), Bách khoa thư văn hóa cổ điển Trung Quốc, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
9. Ngô Đức Thịnh chủ biên (2004), Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và châu Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. Ngô Đức Thịnh (2007), Đạo Mẫu ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Ngô Đức Thịnh (2010), Lên đồng hành trình của thần linh và thân phận, Nxb Thế giới, Hà Nội.
12. Huỳnh Ngọc Trảng, Nguyễn Đại Phúc (2013), Đặc khảo về tín ngưỡng thờ gia Thần, Nxb Văn hóa - Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
13. Chu Quang Trứ (2013), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
14. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn hóa dân tộc - Văn hóa nghệ thuật, Hà Nôi.
15. Trần Quốc Vượng (2014), Trong cõi, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
Bài viết và hình ảnh: Tiến sĩ Nguyễn Văn Bốn