CHUYÊN ĐỀ: BƯỚC ĐẦU VẬN DỤNG DẠY HỌC THEO DỰ ÁN TRONG HỌC PHẦN PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
ThS. Nguyễn Thị Kim Hằng
Bộ môn: Sử - Địa
1. Lý thuyết về dạy học theo dự án
1.1. Khái niệm dự án
Thuật ngữ dự án trong tiếng Anh là “Project”, có nguồn gốc từ tiếng La tinh được hiểu theo nghĩa phổ thông là một đề án, một dự thảo hay một kế hoạch. Dự án là một dự định, một kế hoạch cần được thực hiện trong điều kiện thời gian, phương tiện tài chính, nhân lực, vật lực xác định nhằm đạt được mục đích đã đề ra. Dự án có tính phức hợp, tổng thể, được thực hiện trong hình thức tổ chức dự án chuyên biệt.
Một dự án nói chung có những đặc điểm cơ bản sau:
- Có mục tiêu được xác định rõ ràng.
- Có thời gian qui định cụ thể.
- Có nguồn tài chính, vật chất, nhân lực giới hạn.
- Mang tính duy nhất (phân biệt với các dự án khác).
- Mang tính phức hợp, tổng thể.
- Được thực hiện trong hình thức tổ chức dự án chuyên biệt.
1.2. Khái niệm dạy học theo dự án
Theo K.Frey, học giả hàng đầu về dạy học dự án của Cộng hòa Liên bang Đức thì: Dạy học theo dự án (Project Based Learning - PBL) là một hình thức của hoạt động học tập trong đó, nhóm người học xác định một chủ đề làm việc, thống nhất về một nội dung làm việc, tự lập kế hoạch và tiến hành công việc để dẫn đến một sự kết thúc có ý nghĩa, thường xuất hiện một sản phẩm có thể trình ra được. Học theo dự án nhấn mạnh vai trò của người học.
Theo định nghĩa của Bộ Giáo dục Singapore “Học theo dự án (Project work) là hoạt động học tập nhằm tạo cơ hội cho học sinh tổng hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực học tập, và áp dụng một cách sáng tạo vào thực tế cuộc sống” .
Từ các khái niệm trên, có thể hiểu dạy học theo dự án (DHTDA) là một phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm, hướng người học đến việc lĩnh hội tri thức và kỹ năng thông qua các dự án có liên quan đến các vấn đề có thực trong cuộc sống gắn liền với nội dung dạy học.
1.3. Mục tiêu của dạy học theo dự án
- Hướng tới các vấn đề của thực tiễn, gắn kết nội dung học với cuộc sống thực tế.
- Phát triển cho người học kĩ năng phát hiện và giải quyết vấn đề; kĩ năng tư duy bậc cao (phân tích, tổng hợp, đánh giá).
- Rèn luyện nhiều kĩ năng (tổ chức kiến thức, kĩ năng sống, kĩ năng làm việc theo nhóm, giao tiếp…).
- Cho phép người học làm việc “một cách độc lập” để hình thành kiến thức và cho ra những kết quả thực tế.
- Nâng cao kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin vào quá trình học tập và tạo ra sản phẩm.
1.4. Đặc điểm của dạy học dự án
- Định hướng thực tiễn: chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống của thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn đời sống. Nhiệm vụ của dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng nhận thức của người học. Các dự án học tập có ý nghĩa thực tiễn xã hội, góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống, xã hội. Trong những trường hợp lí tưởng, việc thực hiện các dự án có thể mang lại những tác động xã hội tích cực.
- Định hướng hứng thú người học: Người học được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra, hứng thú của người học cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án.
- Mang tính phức hợp, liên môn: nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc nhiều môn học khác nhau nhằm giải quyết một nhiệm vụ, vấn đề mang tính phức hợp.
- Định hướng hành động: trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp giữa nghiên cứu lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào trong hoạt động thực tiễn, thực hành. Thông qua đó, kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lý thuyết cũng như rèn luyện kỹ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn của người học.
- Tính tự lực của người học: trong dạy học theo dự án, người học cần tham gia tích cực, tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học. Giáo viên (GV) chủ yếu đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy nhiên, mức độ tự lực cần phù hợp với kinh nghiệm, khả năng của người học và mức độ khó khăn của nhiệm vụ.
- Cộng tác làm việc: các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm. Dạy học theo dự án đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kỹ năng cộng tác làm việc giữa các thành viên tham gia, giữa sinh viên (SV) và GV cũng như với các lực lượng xã hội khác tham gia trong dự án.
- Định hướng sản phẩm: trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm được tạo ra không chỉ giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết, mà trong đa số trường hợp các dự án học tập tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu.
1.5. Phân loại các dạng của dạy học theo dự án
DHDA có thể được phân loại theo nhiều phương diện khác nhau. Sau đây là một số cách phân loại dạy học theo dự án:
- Phân loại theo chuyên môn
+ Dự án trong một môn học: trọng tâm nội dung nằm trong một môn học.
+ Dự án liên môn: trọng tâm nội dung nằm ở nhiều môn khác nhau.
+ Dự án ngoài chuyên môn: Là các dự án không phụ thuộc trực tiếp vào các môn học, ví dụ dự án chuẩn bị cho các lễ hội trong trường.
- Phân loại theo sự tham gia của người học: dự án cho nhóm SV, dự án cá nhân. Dự án dành cho nhóm SV là hình thức dự án dạy học chủ yếu. Trong trường phổ thông còn có dự án toàn trường, dự án dành cho một khối lớp, dự án cho một lớp học.
- Phân loại theo sự tham gia của GV: dự án dưới sự hướng dẫn của một GV, dự án với sự cộng tác hướng dẫn của nhiều GV.
- Phân loại theo quỹ thời gian: K.Frey đề nghị cách phân chia như sau:
+ Dự án nhỏ: thực hiện trong một số giờ học, có thể từ 2-6 giờ học.
+ Dự án trung bình: dự án trong một hoặc một số ngày (“Ngày dự án”), nhưng giới hạn là một tuần hoặc 40 giờ học.
+ Dự án lớn: dự án thực hiện với quỹ thời gian lớn, tối thiểu là một tuần (hay 40 giờ học), có thể kéo dài nhiều tuần (“Tuần dự án”).
Cách phân chia theo thời gian này thường áp dụng ở trường phổ thông. Trong đào tạo đại học, có thể quy định quỹ thời gian lớn hơn.
- Phân loại theo nhiệm vụ
Dựa theo nhiệm vụ trọng tâm của dự án, có thể phân loại các dự án theo các dạng sau:
+ Dự án tìm hiểu: là dự án khảo sát thực trạng đối tượng.
+ Dự án nghiên cứu: nhằm giải quyết các vấn đề, giải thích các hiện tượng, quá trình.
+ Dự án thực hành: có thể gọi là dự án kiến tạo sản phẩm, trọng tâm là việc tạo ra các sản phẩm vật chất hoặc thực hiện một kế hoạch hành động thực tiễn, nhằm thực hiện những nhiệm vụ như trang trí, trưng bày, biểu diễn, sáng tác.
+ Dự án hỗn hợp: là các dự án có nội dung kết hợp các dạng nêu trên. Các loại dự án trên không hoàn toàn tách biệt với nhau. Trong từng lĩnh vực chuyên môn có thể phân loại các dạng dự án theo đặc thù riêng
1.6. Tiến trình thực hiện dạy học theo dự án
Dựa trên cấu trúc của tiến trình phương pháp, người ta có thể chia cấu trúc của DHDA làm nhiều giai đoạn nhỏ hơn. Sau đây là một cách phân chia dạy học theo dự án theo 5 giai đoạn.
- Chọn đề tài và xác định mục đích của dự án : GV và SV cùng nhau đề xuất, xác định đề tài và mục đích của dự án. Cần tạo ra một tình huống xuất phát, chứa đựng một vấn đề, hoặc đặt một nhiệm vụ cần giải quyết, trong đó chú ý đến việc liên hệ với hoàn cảnh thực tiễn xã hội và đời sống. Cần chú ý đến hứng thú của người học cũng như ý nghĩa xã hội của đề tài. GV có thể giới thiệu một số hướng đề tài để học viên lựa chọn và cụ thể hoá. Trong trường hợp thích hợp, sáng kiến về việc xác định đề tài có thể xuất phát từ phía SV. Giai đoạn này được K.Frey mô tả thành hai giai đoạn là đề xuất sáng kiến và thảo luận sáng kiến.
- Xây dựng kế hoạch thực hiện: trong giai đoạn này SV với sự hướng dẫn của GV xây dựng đề cương cũng như kế hoạch cho việc thực hiện dự án. Trong việc xây dựng kế hoạch cần xác định những công việc cần làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành và phân công công việc trong nhóm.
- Thực hiện dự án : các thành viên thực hiện công việc theo kế hoạch đã đề ra cho nhóm và cá nhân. Trong giai đoạn này, SV thực hiện các hoạt động trí tuệ và hoạt động thực tiễn, thực hành, những hoạt động này xen kẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Kiến thức lý thuyết, các phương án giải quyết vấn đề được thử nghiệm qua thực tiễn. Trong quá trình đó sản phẩm của dự án và thông tin mới được tạo ra.
- Thu thập kết quả và công bố sản phẩm : kết quả thực hiện dự án có thể được viết dưới dạng thu hoạch, báo cáo, luận văn… Trong nhiều dự án, các sản phẩm vật chất được tạo ra qua hoạt động thực hành. Sản phẩm của dự án cũng có thể là những hành động phi vật chất, chẳng hạn việc biểu diễn một vở kịch, việc tổ chức một sinh hoạt nhằm tạo ra các tác động xã hội. Sản phẩm của dự án có thể được trình bày giữa các nhóm sinh viên (SV), có thể được giới thiệu trong nhà trường, hay ngoài xã hội.
- Đánh giá dự án: GV và SV đánh giá quá trình thực hiện và kết quả cũng như kinh nghiệm đạt được. Từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc thực hiện các dự án tiếp theo. Kết quả của dự án cũng có thể đuợc đánh giá từ bên ngoài. Hai giai đoạn cuối này cũng có thể được mô tả chung thành giai đoạn kết thúc dự án.
Việc phân chia các giai đoạn trên đây chỉ mang tính chất tương đối. Trong thực tế chúng có thể xen kẽ và thâm nhập lẫn nhau. Việc tự kiểm tra, điều chỉnh cần được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của dự án. Với những dạng dự án khác nhau có thể xây dựng cấu trúc chi tiết riêng phù hợp với nhiệm vụ dự án. Giai đoạn 4 và 5 cũng thường được mô tả chung thành một giai đoạn (giai đoạn kết thúc dự án).
1.7. Ưu điểm và nhược điểm của dạy học theo dự án
- Ưu điểm: Các đặc điểm của DHDA đã thể hiện những ưu điểm của PPDH này. Có thể tóm tắt những ưu điểm cơ bản sau đây của dạy học theo dự án:
· Gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội;
· Kích thích động cơ, hứng thú học tập của người học;
· Phát huy tính tự lực, tính trách nhiệm;
· Phát triển khả năng sáng tạo;
· Rèn luyện năng lực giải quyết những vấn đề phức hợp;
· Rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn;
· Rèn luyện năng lực cộng tác làm việc;
· Phát triển năng lực đánh giá [1, tr.150].
Chuyên gia về PBL Thom Markham nhận định: “Học sinh không chỉ tìm hiểu kiến thức thuộc chương trình giảng dạy mà còn áp dụng những gì các em biết để giải quyết các vấn đề thực.” PBL đồng thời cũng tập trung hơn vào việc giáo dục học sinh, chứ không chỉ đơn thuần tập trung vào chương trình giảng dạy – đây là một sự thay đổi bắt buộc mang tính toàn cầu, tài sản mang lại cho thế giới khi ấy chính là niềm đam mê, sự sáng tạo, sự đồng cảm, và khả năng học được cả những điều không được giảng dạy trong sách giáo khoa [6].
- Nhược điểm
· DHTDA không phù hợp trong việc truyền thụ tri thức lý thuyết mang tính trừu tượng, hệ thống cũng như rèn luyện hệ thống kỹ năng cơ bản;
· DHTDA đòi hỏi nhiều thời gian. Vì vậy DHDA không thay thế cho PP thuyết trình và luyện tập, mà là hình thức dạy học bổ sung cần thiết cho các PPDH truyền thống.
· DHTDA đòi hỏi phương tiện vật chất và tài chính phù hợp [2].
2. Vận dụng dạy học theo dự án trong giảng dạy học phần phương pháp dạy học Lịch sử
2.1. Giới thiệu về học phần
Học phần Phương pháp dạy học Lịch sử (3 tín chỉ) trang bị cho sinh viên SP Địa – Sử K42 cơ sở để xác định, lựa chọn hệ thống phương pháp dạy học Lịch sử ở trường THCS; trình bày rõ đặc trưng của từng hệ thống các phương pháp, phương tiện dạy học Lịch sử ở trường THCS; những kỹ năng, biện pháp sử dụng các phương pháp trong thực tiễn dạy học Lịch sử nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. Trình bày các hình thức dạy học, kiểm tra đánh giá bộ môn lịch sử ở trường THCS, những kỹ năng soạn giáo án trong đó có giáo án điện tử; xác định những yêu cầu, cách tiến hành công tác ngoại khóa bộ môn lịch sử ở trường THCS. Trên cơ sở đó, sinh viên có thể đáp ứng yêu cầu dạy học ở trường THCS.
2.2. Vận dụng Dạy học theo dự án trong học phần Phương pháp dạy học Lịch sử
Trên cơ sở sinh viên lớp SP Địa – Sử K42 đa số ở trình độ trung bình khá và thời lượng giảng dạy có hạn, GV chỉ giới thiệu về lý thuyết của dạy học theo dự án và hướng dẫn cho SV cách chọn chủ đề của dự án, đặt ra mục tiêu và dự kiến sản phẩm của dự án.
Cụ thể, sau khi trình bày lý thuyết về phương pháp dạy học dự án, GV tổ chức hoạt động nhóm, yêu cầu các nhóm từ nội dung GV yêu cầu chuẩn bị trước:
+ Nhóm 1: tài liệu, trong đó có ít nhất 1 video về nội dung dạy học lịch sử ở trường THCS hiện nay kèm nhận xét.
+ Nhóm 2: tài liệu, trong đó có ít nhất 1 video về phương pháp dạy học lịch sử ở trường THCS hiện nay kèm nhận xét.
+ Nhóm 3: tài liệu, trong đó có ít nhất 1 bài kiểm tra lịch sử ở trường THCS hiện nay kèm phân tích, nhận xét.
lên ý tưởng về chủ đề, mục tiêu và dự kiến sản phẩm của một dự án liên quan đến dạy học Lịch sử.
Nhóm 1 đã trình bày:
Video thứ nhất về trận đại phá quân Thanh của quân Tây Sơn do Quang Trung-Nguyễn Huệ lãnh đạo vào thế kỷ XVIII, đây là một kiến thức quan trọng đã được nhắc đến trong sách giáo khoa từ cấp 1 đến cấp 3. Tuy nhiên, khi được phóng viên hỏi thì nhiều học sinh không biết Quang Trung - Nguyễn Huệ là một, cũng không biết các di tích lịch sử gắn với nhân vật này.
Video thứ hai, một học sinh chia sẻ: kiến thức lịch sử trong sách giáo khoa quá nặng nề, dàn trải, thiếu hình ảnh. Trong khi đó môn học Lịch sử chỉ được coi là môn học phụ. Vì vậy, cần liên hệ thực tế, lồng ghép dạy lịch sử với kiến thức sống.
Trong nội dung dạy học lịch sử ở THCS, các kiến thức lịch sử được trình bày khoa học, hệ thống, có kênh hình ở mỗi bài, thông tin đa dạng từ các nguồn tài liệu lịch sử, văn học, địa lý. Tuy nhiên, nội dung kiến thức dàn trải, nhiều sự kiện, học sinh khó nhớ.
GS.TS.NGND Vũ Dương Ninh đã nhận xét: "Cái chúng ta đang dạy cho học sinh phổ thông quá nặng nề, tham lam. Thay vì nhồi thật nhiều, nên chọn lọc một số sự kiện gây được hứng thú với các em, trong đó có việc bảo vệ Tổ quốc và những kinh nghiệm sống trong quá khứ”.
Nội dung dạy học Lịch sử ở trường THCS vẫn còn thiên về các cuộc kháng chiến, khởi nghĩa, đấu tranh quân sự, chính trị và không gây ấn tượng sâu sắc trong học sinh do thiếu liên hệ thực tế. Kênh hình còn ít, chưa hấp dẫn.
Từ những thông tin sưu tầm được, nhóm có một ý tưởng về dự án liên quan đến nội dung dạy học lịch sử ở trường THCS .
Chủ đề của dự án là: Đổi mới trong nội dung dạy học Lịch sử ở trường THCS, tạo hứng thú cho người học.
Mục tiêu của dự án: giúp sinh viên biết kết hợp kiến thức địa lí, văn học, nghệ thuật, giáo dục công dân kết hợp với sử dụng đồ dùng trực quan và câu chuyện lịch sử vào nội dung dạy học lịch sử ở trường THCS.
Dự kiến sản phẩm của dự án là một giáo án dạy học một bài trong sách giáo khoa Lịch sử THCS với nội dung được chọn lọc những sự kiện cơ bản, có tích hợp liên môn, liên hệ thực tế với đồ dùng trực quan sinh động, tạo hứng thú cho người học, đáp ứng các mục tiêu về kiến thức, kỹ năng, thái độ và năng lực.
Nhóm 2 đã trình bày:
Trong video về đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường THCS, học sinh được đóng vai, chủ động tìm hiểu kiến thức từ nhiều nguồn, được trình bày chính kiến của bản thân. Nhờ vậy, học sinh yêu thích môn Lịch sử. Giáo viên chia sẻ, việc làm tốt vai trò định hướng của giáo viên, tổ chức nhiều hoạt động giúp việc dạy học lịch sử đạt hiệu quả.
Có thể thấy, phần lớn GV Lịch sử ở trường phổ thông là những người yêu nghề, nhận thức được tầm quan trọng của dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, độc lập nhận thức của học sinh. Do vậy, họ biết vận dụng sáng tạo, linh hoạt các hình thức tổ chức, phương pháp, phương tiện dạy học. Các trường phổ thông tổ chức nhiều hoạt động chuyên môn, sinh hoạt chuyên đề, hội giảng, thi GV dạy giỏi, viết sáng kiến kinh nghiệm, thi HS giỏi... Những hoạt động chuyên môn đó đã góp phần tác động tích cực đến hoạt động dạy học trong môn học. Tuy nhiên, những biểu hiện tích cực trên chưa được diễn ra thường xuyên mà chỉ tập trung ở một số trường chuyên, hay chỉ tập trung vào các kỳ thi, hội thi giảng hoặc các đợt kiểm tra, thanh tra các cấp chứ chưa thực sự chuyển biến trong từng ý thức của GV và cán bộ quản lý giáo dục [5, tr.5].
Từ những thông tin sưu tầm được, nhóm có một ý tưởng về dự án liên quan đến phương pháp dạy học lịch sử.
Chủ đề của dự án là: Đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử ở trường THCS.
Mục tiêu của dự án: tổ chức cho học sinh THCS tham gia vào quá trình dạy học, tăng cường tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các em.
Dự kiến sản phẩm của dự án do các em học sinh thực hiện là một video clip về chiến thắng Bạch Đằng và một tiểu phẩm về cuộc trò chuyện giữa Nguyễn Tất Thành và Tư Lê.
Nhóm 3 đã trình bày:
Từ hai bài kiểm tra 1 tiết, kiểm tra học kỳ của 1 em học sinh THCS, nhóm phân tích và thấy được: về nội dung kiểm tra, chủ yếu là kiểm tra kiến thức, rất ít kiểm tra kỹ năng thực hành và không có phần kiểm tra thái độ; về độ khó của các câu hỏi: chủ yếu là câu hỏi biết và vận dụng, câu hỏi hiểu chiếm số lượng ít. Việc đánh giá như vậy chưa phát huy được năng lực của người học.
Thực tế hiện nay cho thấy, kiểm tra đánh giá trong môn Lịch sử được quan tâm đổi mới cùng với nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học. Các cuộc thi học sinh giỏi môn Lịch sử (cấp thành phố và quốc gia) được tổ chức hàng năm và việc Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam trao giải cho các học sinh xuất sắc là những nỗ lực nhằm động viên, khuyến khích niềm yêu thích của thế hệ trẻ với môn Lịch sử. Tuy nhiên, các bài kiểm tra, các kì thi ở trường phổ thông còn nặng về điểm số, dạy học theo những nội dung thi, yêu cầu học sinh nhớ máy móc sự kiện, thời gian [4, tr.9]; những quy định cứng nhắc của các nhà trường khiến GV chưa biết cách vận dụng linh hoạt các hình thức kiểm tra, một số GV chưa coi trọng đánh giá và chưa coi đây là kênh phản hồi tích cực để điều chỉnh các thành tố khác của quá trình dạy học. Vì vậy, cần đổi mới kiểm tra đánh giá trong dạy học lịch sử ở trường THCS.
Từ những thông tin sưu tầm được, nhóm có một ý tưởng về dự án liên quan đến kiểm tra, đánh giá dạy học lịch sử .
Chủ đề của dự án là: Đổi mới cách kiểm tra, đánh giá Lịch sử theo định hướng phát triển năng lực người học.
Mục tiêu của dự án: giúp sinh viên soạn câu hỏi theo mức độ tư duy và nội dung phù hợp, nhằm phát triển năng lực của học sinh.
Dự kiến sản phẩm của dự án là một bài kiểm tra lịch sử ở trường THCS với nội dung kiểm tra bao gồm kiến thức, kỹ năng, thái độ, năng lực và các mức độ tư duy: biết, hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao.
3. Một số lưu ý khi áp dụng dạy học theo dự án
3.1. Những điều cần làm để áp dụng phương pháp dạy học theo dự án tốt hơn
- Đưa ra các vấn đề thực tế: Các vấn đề thực tế đang diễn ra có nhiều khả năng thu hút được sự quan tâm của sinh viên. Hãy để sinh viên được học thực sự bằng cách khuyến khích sinh viên sử dụng chính các công cụ và kỹ thuật mà các chuyên gia sử dụng để tiến hành điều tra và giải quyết các vấn đề trong thực tế đời sống.
- Tham khảo các ý tưởng tốt: Các giáo viên có thể khai thác các thư viện PBL để tìm ý tưởng cho dự án ở trường mình. Hoặc sử dụng tính năng tìm kiếm dự án trên website của Viện giáo dục Buck. Lắng nghe các ý tưởng dự án mà các giáo viên đang thảo luận trong thế giới blog hoặc trên các kênh mạng xã hội khác. Khi cần thiết có thể điều chỉnh ý tưởng của các dự án để đáp ứng mục tiêu giảng dạy, thích ứng với bối cảnh địa phương và đáp ứng nhu cầu của người học.
- Trao quyền xây dựng ý tưởng dự án cho người học: PBL hiệu quả nhất khi sinh viên quan tâm đến những gì họ đang học. Sinh viên được quyền phản hồi về ý tưởng dự án mà giảng viên đưa ra (giảng viên sẵn sàng xem xét những góp ý đó). Giảng viên trao quyền cho sinh viên lựa chọn những gì các em muốn thực hiện và chứng minh những kiến thức đã học được. Khi sinh viên đã quen với phương pháp PBL, có thể để sinh viên tự đề xuất ý tưởng dự án của riêng mình.
- Có thời gian để cải thiện dự án: Mặc dù dự án có thời điểm bắt đầu và kết thúc rõ ràng nhưng cũng có thể có những ngoại lệ. Giảng viên nên dành thời gian cho sinh viên khi mà các em vẫn còn những băn khoăn, xáo trộn về dự án của mình thông qua việc nhận thông tin phản hồi và đồng ý sửa đổi đề tài dự án. Hãy chắc chắn rằng sinh viên biết cách làm thế nào để đưa ra và nhận được phản hồi quan trọng từ giảng viên, khuyến khích sinh viên học hỏi từ những thất bại và quay lại với dự án của mình theo một con đường khác thích hợp hơn.
- Tập trung vào các nhóm: Việc hợp tác đang ngày càng quan trọng cả ở trong và ngoài lớp học. Chính vì vậy, cần khuyến khích làm việc nhóm thực sự trong quá trình thực hiện dự án. Sinh viên cần hiểu làm việc nhóm có trách nhiệm quan trọng như thế nào và tại sao một nhóm tốt là phải khai thác được tài năng của tất cả các thành viên trong nhóm. Lấy các ví dụ từ thực tế để giúp sinh viên thấy làm việc nhóm hiệu quả sẽ có kết quả cao hơn cá nhân làm việc độc lập.
- Chia sẻ kết quả: Sinh viên sẽ thấy hào hứng hơn khi các em biết công việc của mình sẽ hướng tới một đối tượng thực tế. Để sinh viên thuyết trình bảo vệ kết quả dự án sẽ giúp phát triển sự tự tin và bản lĩnh của các em. Triển lãm dự án cũng giúp các bậc phụ huynh và các thành viên khác trong cộng đồng có cơ hội nhìn nhận những gì mà sinh viên đang thực hiện thông qua PBL.
3.2. Những điểm cần tránh trong PBL
- Không nên để việc thực hiện dự án sau khi học: Dự án là trọng tâm của chương trình giảng dạy chứ không chỉ là một hoạt động thú vị sau khi quá trình học kết thúc.
- Đừng ngại hỏi ý kiến đồng nghiệp, chuyên gia: Hãy hỏi để nhận được phản hồi về ý tưởng dự án từ những người đồng nghiệp đang dạy các cấp lớp hoặc các môn khác nhau. Việc hỏi ý kiến các chuyên gia để có được lời khuyên sẽ giúp dự án của bạn mang tính thực tế cao hơn.
- Đừng bỏ hẳn các hoạt động dạy và học hiệu quả trong phương pháp truyền thống khi chuyển sang PBL: Thay vì giảng bài cho cả lớp, bạn có thể giảng những “bài giảng ngắn” qua các câu hỏi với từng nhóm sinh viên. Thay vì lên kế hoạch cho các hoạt động độc lập như các chuyến đi thực tế hay các buổi mời các diễn giả về nói chuyện, bạn có thể kết nối những sự kiện này trong quá trình nghiên cứu dự án. Hãy suy nghĩ về những cách bạn có thể kiểm tra được sự tiến bộ của sinh viên và sử dụng những cách này để đánh giá quá trình thực hiện dự án của sinh viên.
- Đừng quên tự đánh giá: Tự đánh giá là hoạt động quan trọng với sinh viên cũng như giáo viên trong PBL, nên khuyến khích sự tự đánh giá của sinh viên trong suốt dự án. Hãy thử xen kẽ đánh giá bằng văn bản với các đoạn hội thoại ngắn mà sinh viên kể về quá trình thực hiện và những thử thách mà các em trải qua. Cuối dự án, hãy dành thời gian phỏng vấn sinh viên sau khi thuyết trình, đưa ra những phản hồi để khuyến khích sinh viên đặt mục tiêu cao cho các dự án tiếp theo. Bản thân giáo viên cũng có lợi khi tự đánh giá về quá trình PBL của mình. Liệt kê những điều bạn đã làm tốt và những khó khăn (với bạn hoặc sinh viên của bạn), và làm thế nào bạn có thể nâng cao chất lượng các dự án tiếp theo. Hơn thế, bạn có thể chia sẻ phần đánh giá này với đồng nghiệp. Điều này sẽ nâng cao hiểu biết của bạn về PBL hơn [3].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Lăng Bình, Dạy và học tích cực – Một số phương pháp và kĩ thuật dạy học, NXB Đại học Sư phạm, 2010.
2. Dạy học theo dự án, https://dayhoctheoduan.wikispaces.com/D%E1%BA%A1y+h%E1%BB%8Dc+theo+d%E1%BB%B1+%C3%A1n, truy cập ngày 1/3/2018.
3. Nguyễn Thị Thắm (theo Blogs Eduweek), Áp dụng project-based learning hiệu quả – Những điều nên và không nên, https://caodang.fpt.edu.vn/blog/nhung-dieu-nen-va-khong-nen-lam-de-ap-dung-phuong-phap-project-learning-hieu-qua-hon.html, truy cập ngày 26/1/2018.
4. Nguyễn Chí Thuận, Áp dụng công nghệ dạy học dự án vào bài giảng lịch sử, Sáng kiến kinh nghiệm, 2009.
5. Hoàng Thanh Tú, Những định hướng và thực tiễn dạy học Lịch sử ở Việt Nam, http://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/13172/1/51.pdf, truy cập ngày 25/2/2018.
6. Markham, T. (2011), Project Based Learning, Teacher Librarian, 39 (2), 38-42.